Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên
NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ
CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 26)
(83) 十羊九牧 [thập dương cửu mục] (chín người chăn 10 dê). Thành ngữ bắt nguồn từ một câu chuyện về bản
tấu trình mà một viên quan cao cấp đưa lên cho hoàng đế Trung Quốc cổ đại. Câu
thành ngữ chứa đựng trí tuệ và kiến thức vẫn còn hữu dụng cho các nhà quản lý
trong thời hiện đại.
Khoảng 1.500 năm trước, Trung Quốc đang ở trong thời kỳ hỗn loạn kéo dài
hơn 100 năm, đất nước bị chia cắt thành hai phần nam – bắc, mỗi phần lại bị cai
trị bởi các triều đại ngắn ngủi. Chiến tranh và bất ổn xã hội đã diễn ra liên tục,
nhưng đây cũng là thời điểm hưng thịnh của nghệ thuật, văn hóa và tôn giáo.
Giai đoạn này được gọi là Nam – Bắc triều (420 – 581 sau Công nguyên).
Sau thời Nam – Bắc triều, triều đại nhà Tùy (581 – 618 sau Công nguyên)
được dựng nên bởi vua Tùy Văn Đế, người đã thống nhất Trung Hoa lần đầu tiên
sau hơn một thế kỷ phân chia nam bắc.
Vua Tùy có một số quan thân cận trung thành hỗ trợ việc nước. Một trong số
đó là Yang Shangxi (sống vào khoảng 533 – 590 sau Công nguyên).
Yang nhận thấy một số khó khăn trong việc quản lý đất nước. Có quá nhiều
châu huyện và quan lại cấp châu huyện, do phân chia khu vực hành chính để lại từ
triều đại trước. Vì vậy, hầu hết các quan chức chỉ chịu trách nhiệm ở một khu vực
nhỏ, hoặc không có thực quyền và không hữu ích.
Tình trạng này không chỉ gây ra gánh nặng chi phí cho triều đình, mà còn
là trở ngại cho việc thực hiện công việc suôn sẻ. Yang cảm thấy rất lo lắng, vì
vậy ông đã thảo một bản tấu trình lên nhà vua.
Yang viết: “Hiện này có quá nhiều huyện và quá nhiều quan lại, giống như
có tới 9 người chỉ để chăn 10 con dê. Điều này khiến triều đình chịu nhiều chi
phí và làm tốn thời gian thực hiện công việc.
“Việc giảm số lượng các huyện và quan lại là ưu tiên hàng đầu đối với quốc
gia. Thần xin đề xuất duy trì các khu vực hành chính hợp lý, và cử những quan lại
có năng lực tới những nơi thực sự cần. Đối với những vị trí phải giảm bớt, có
thể cho họ những công việc khác.”
“Những thay đổi này sẽ làm giảm đáng kể chi phí cho triều đình và giúp điều
hành công việc quốc gia hiệu quả hơn.”
Sau khi đọc bản tấu trình của Yang, Tùy Văn Đế đã sử dụng những lời tâm
huyết của vị quan và thực hiện một loạt những cải cách tập trung, đưa đến kết
quả rất khả quan.
Câu chuyện này nằm trong phần tiểu sử của Yang Shangxi trong cuốn “Tùy
Thư” (1). Cụm từ “Thập dương cửu mục” trong bản tấu của ông lên vua Tùy sau này
đã trở thành một thành ngữ.
Thành ngữ này có thể dịch theo nghĩa đen là “có 9 người chăn 10 con dê”,
và dùng để miêu tả một tình huống trong đó có quá nhiều người ra lệnh và không
đủ người thực hiện.
Nó cũng truyền đạt tầm quan trọng phải xây dựng hệ thống phân quyền rõ
ràng, mạch lạc trong việc quản lý hoặc tổ chức, để không xảy ra sự nhầm lẫn hoặc
không biết phải tuân thủ mệnh lệnh của ai, tránh xảy ra sự chồng chéo, gây lãng
phí cho đất nước và phiền hà cho nhân dân.
Ghi chú: (1) Cuốn “Tùy Thư” là sách lịch sử của thời kỳ nhà Tùy. Sách được
biên soạn bởi nhóm sử quan đời nhà Đường và hoàn thành vào năm 636 sau Công
nguyên. Cuốn sách bao gồm 5 Đế kỷ, 30 Chí và 50 Liệt truyện.
Cận nghĩa: 僧多粥少[tăng
đa chúc thiểu] (sư nhiều cháo ít)、人浮于事 [nhân phù vu sự ](nhiều người ít việc)
Có thể làm định ngữ, trạng ngữ, chỉ quá nhiều lãnh đạo.
Tiếng Anh: overstaffed < be ununiformly
ordered>
(84) 天愁地惨[ thiên sầu địa thảm](trời sầu đất
thảm)
Thành ngữ này có ý chỉ trời đất cảm
thấy sầu khổ, thê thảm, hình dung cực kì bi thảm (thường dùng từ ngữ khí)
Xuất xứ từ tiểu thuyết “Tam quốc diễn
nghĩa” của nhà văn La Quán Trung, thời
Minh, hồi 104: “Đang đêm, thiên sầu địa
thảm, mặt trăng vụt tắt, Khổng Minh đột nhiên về trời.”
Có thể làm vị
ngữ, định ngữ, dùng nhiều làm từ ngữ khí.
Cận nghĩa:天昏地暗 [thiên hôn địa
ám] (trời đất u ám)
(85) 馬 到 成 功 [mã đáo thành công]
Chúng ta thường chúc nhau 馬 到 成 功 [mã đáo thành công]
để mong người kia có được
thành công trong công việc sắp tới.
Nhưng nguồn gốc thật sự của câu nói trên là gì, các bạn
cùng tìm hiểu qua 2 điển tích dưới đây.
Thành ngữ “Mã đáo thành công” được dùng để ám chỉ sự thành công nhanh
chóng.
1. Truyền thuyết thứ nhất
Năm thứ hai triều đại nhà Tần (221-206 trước công
nguyên), Tần Thủy Hoàng hay tin về một Hòn đá Thần có hoa văn tinh mỹ trên núi
Vinh Thành. Tương truyền rằng đây là hòn đá còn sót lại khi Thần Nữ Oa vá trời
và nó có thể giúp nhà vua duy trì ổn định quyền lực.
Tần Thủy Hoàng lập tức ra lệnh xây dựng một con đường
đi đến chỗ Hòn đá Thần. Sau đó, ông xuất lĩnh thiên binh vạn mã hướng về Hòn đá
này; đến nơi, ông cung kính lễ bái Hòn đá một lúc lâu.
Quả nhiên sau đó sự sự như ý, thiên hạ thái bình. Tần
Thủy Hoàng rất vui mừng, yêu cầu bá quan làm thơ ca ngợi. Lúc đó có một vị tên
là ‘Từ Phúc lão tiên sinh’ đã viết:
“Vạn mã thiên quân ngự trì đạo
Thủy Hoàng bái thạch đắc thành công”
Tạm dịch:
“Ngàn vạn binh lính người ngựa dong ruổi
Thủy Hoàng lễ bái hòn đá được thành công“
Vào triều Nguyên (1279-1368 sau công nguyên), đại tác
gia Quan Hán Khanh trong tác phẩm Ngũ Hầu Yến, đã dựa vào điển cố trên mà sáng
tạo nên thành ngữ “Mã đáo thành công”.
Dần dần theo khẩu truyền, thành ngữ này hiện nay được dùng để ám chỉ sự
thành công nhanh chóng.
2. Truyền thuyết thứ hai
Thời cổ đại, khi giao chiến, kị binh có vai trò quan
trọng, quyết định thắng bại trên chiến trường. Khi kị binh đến thì chiến thắng.
Mã đáo thành công (Dịch nghĩa: Ngựa đến liền thành
công) thể hiện sự quan trọng của ngựa trên chiến trường, về sau câu này để chỉ
công việc thuân lợi, xuôi chèo mát mái. Mọi người thường nói: Kỳ Khai Đắc Thắng Mã Đáo Thành Công – 旗 開 得 勝 馬 到 成 功 .
Tranh mã đáo thành công lấy hình tượng 8 con ngựa.
Tương truyền đây là tám con ngựa đánh xe đưa Chu Mục Vương , vua thứ năm của
nhà Chu Trung Quốc, đi tuần thú khắp nơi. Tám con ngựa, từ sắc lông được đặt
tên lần lượt là : Xích Ký, Ðạo Ly, Bạch Nghĩa, Du Luân, Sơn Tử, Cừ Hoàng, Hoa
Lưu và Lục Nhĩ.
Chu Mục Vương (1001 TCN – 947TCN) hoặc (976TCN – 922
TCN) theo các nghiên cứu khác nhau là vua thứ năm của nhà Chu, ông sử dụng hiền
tài làm cho nhà Chu trở nên hưng thịnh, do đó ông được coi là minh quân, tám
con ngựa của ông cũng thành một điển tích nổi tiếng.
Ý nghĩa
Ngựa xuất hiện trong tranh như là biểu tượng của sự
mau chóng và thành đạt. Ngựa là hình ảnh của sự trung thành, kiên nhẫn, sự may
mắn mang tài lộc. Ngựa phi nước đại còn gọi là lộc mã đem lại nguồn tài lộc, sự
phát đạt trong kinh doanh.
Bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là Mã Đáo Thành Công
thể hiện một bầy ngựa có tám con đang phi nước đại gió bụi mịt mù. Sở dĩ bức
tranh có tám con ngựa bởi vì số 8 “Bát” 八 đọc theo Hán cùng một âm với chữ
“Phát” là phát đạt. Ngựa phi trong gió cũng có ý là con ngựa đó khỏe mạnh.
Dùng cho những người hay đi xa, chuyến đi thành công tốt
đẹp. Bình thường tám con ngựa chạy về, ý là tám con đều cùng một chí hướng,
đó là ý nghĩa nguyên thủy của các tranh thời xưa: “mạnh dạn dồn hết nhiệt
huyết, tiến về một hướng để đạt mục đích”. Ngày nay, tranh “Mã đáo thành công” được vẽ thêm chi tiết
khác bình thường.
(Theo Đại Kỷ Nguyên bản tiếng Anh)
Cận nghĩa với thành ngữ này là: 旗开得胜 [kì
khai đắc thắng] (chiến thắng ngay từ trận
đầu)、水到渠成 [thủy
đáo cừ thành] (trăng đến rằm thì trăng
tròn)
Trái nghĩa với thành ngữ này là: 屡战屡败 [lũ chiến lũ bại] (屡:nhiều lần; nhiều lần đánh bại nhiều lần
thất bại)
Cách dùng: Từ với nghĩa khen
ngợi, làm vị ngữ, tân ngữ, định ngữ.
Nguyễn Ngọc Kiên
No comments:
Post a Comment