Nhà thơ Yến Lan
CUỘC ĐỜI VÀ NHỮNG GIAI THOẠI
Tâm sự của ba tôi trên báo “Tuổi trẻ”:
“Trong đời tôi, hai người để lại nhiều kỷ
niệm đẹp nhất là Chế Lan Viên và Quách Tấn. Chúng tôi đã từng xem nhau như anh
em ruột thịt, thề không bao giờ phụ nhau. Tôi học trên Chế Lan Viên ba lớp, lớn
hơn ba tuổi.
Hệt như có duyên số, hai đứa tôi gặp nhau, chơi thân nhau. Có cuốn sách hay,
bài thơ nào hay chúng tôi đều đọc cho nhau nghe. Hồi tôi sống nương nhờ tại
chùa Ông Bình Định, một hôm thấy một người đàn ông đi xe hàng đỗ gần đó đang
cầm cuốn “Hồn bướm mơ tiên” của Khải Hưng. Tôi nài nỉ mãi ông mới chịu cho
mượn. Tôi chạy một mạch vào Thành, gõ cửa nhà Chế Lan Viên bảo: “Hoan ơi! Tao
có cuốn sách này hay lắm” Thế rồi hai đứa thức đọc suốt tới gần sáng, kịp trả
sách đúng hẹn vào 4h 30’sáng. Trong lòng hoan hỉ vô cùng!
Lúc học ở Bình Định, tôi và Chế Lan
Viên rất mê báo Phong hóa.
Hai đứa bàn nhau làm báo. Bọn tôi mua thạch xoa về, khắc chữ lên rồi in ra
giấy, bắt chước kiểu cách của báo Phong Hóa. Mỗi lần in 15 bản, bán cho bạn bè
trong lớp. Tiền lời kiếm được dùng mua thạch xoa, tiếp tục in. Được một thời
gian bọn tôi bị hiệu trưởng bắt phạt quì rồi cấm luôn “tờ báo”
Chiều chiều, tôi và Chế thường bá
vai nhau lên cửa Đông Thành Bình Định ngắm cảnh, bàn chuyện văn chương thi phú.
Hai đứa đều trăn trở với dân Chàm, tháp Chàm nên bàn nhau viết “cái gì đó”.
Thời gian này, Chế Lan Viên cho ra đời tập “Điêu tàn” nổi tiếng. Còn tôi tập
“Giếng loạn” gồm 28 bài thơ, viết về kiếp đời của các Chiêm nương, tiếc thay
chưa kịp công bố thì bị mất.
Với bác Quách Tấn
“Tôi biết Quách Tấn khi anh xuất bản
“Một tấm lòng” và “Mùa cổ điển”. Anh là người sống chân thật, yêu thương bạn bè
hết lòng. Anh trọng lễ nghĩa, căm ghét sự lợi dụng. Đôi khi, anh trở thành kẻ
gia trưởng. Thời gian Chế Lan Viên ra Hà Nội học, thường vào các thư viện chép
thơ gởi về cho tôi và Quách Tấn thưởng thức. Còn tôi cũng thường chép những bài
thơ hay trong các tạp chí đọc được gửi cho Hàn, Chế, và Quách Tấn. Có lần, Chế
Lan Viên gửi thư cho chúng tôi: “Mình cố gắng thu gom những cái hay, cái đẹp để
học tập. Hai cậu đừng ham chơi quá, phải cố gắng trau dồi kiến thức, chuyên tâm
nghiên cứu văn học. Sau này đứa nào tiến lên thì không đợi những đứa kia đâu”
Đọc thư xong, Quách Tấn khóc và bảo “Nói thế thì cũng đúng thôi, nhưng bạn bè
thân thiết sao nó (Chế Lan Viên) lại răn đe mình như thế. Không lẽ thằng giỏi
không giúp đứa dở cùng tiến hay sao?”
Anh Quách Giao con bác Tấn bổ sung:
Tuy quen nhau rất muộn, nhưng
Yến Lan đã có nhiều thời gian sống cùng Quách Tấn tại Nha Trang và Bình
Định. Năm 1941, sau khi Hàn Mặc Tử mất và Chế Lan Viên ra Thanh Hóa dạy
học, Yến Lan vì buồn nên vào ở Nha Trang gần nửa năm. Công việc của Yến Lan chỉ
ở nhà đọc sách khi Quách Tấn đi làm và dạy trẻ học. Tủ sách trong nhà gồm có
sách chữ Pháp, chữ Hán và các sách báo trong nước. Yến Lan đọc và ghi chú các điều
cần nhớ và hàng đêm đều đem ra thảo luận cùng với Quách Tấn. Hiện tại chúng tôi
còn giữ được một tập ghi chép của Yến Lan về thơ Pháp và Trung Hoa dày trên 100
trang khổ giấy lớn A4. (khi đọc tới dòng này tôi gọi điện cho anh
Quách Giao để xin lại tập ghi chép này nhưng anh không cho dù chỉ là tập photo)
Chúng tôi mỗi khi đi học về đều
quanh quẩn bên chú Lang và được chú chỉ bảo và dạy thêm về các bài vở ở nhà
trường. Chú giảng, dạy rất dể hiểu và nhiều lý thú. Ngoài ra chú còn dạy tôi
học thuộc những bài thơ lục bát của Tản Đà, những bài ca dao. Má tôi quý và
thương yêu chú Lang như em ruột.
Những kỷ niệm giữa ba tôi và chú
Lang thường được tôi chứng kiến, vì khi đi chơi biển hoặc viếng cảnh Tháp Bà,
Hòn Chồng hay các thắng cảnh khác tôi đều được cho đi theo. Đi Hòn Chồng thì
tôi thích thú khi được chú Lang chỉ cho cách ngắm cảnh nước non theo kiểu chổng
khu nhìn cánh vật qua hai chân và đầu lộn ngược. Bài thơ lộn ngược viết vào
thời khắc khi về già nhưng chắc ông đã nhớ lại cái ngày xa xưa ấy.
Soi mặt nước giếng thơi / Kìa mây bay dưới
tóc / Con trẻ thấy trò vui /Ưa cái nhìn lộn ngược
Lộn ngược 12/1987
Tôi say sưa nghe những
câu chuyện về bàn tay ông Khổng Lồ còn in lại trên vách đá và nhất là những bài
thơ vịnh Hòn Chồng của chí sĩ Trần Quý Cáp và của cụ Thuần Phu Trần Khắc Hành.
Sở dĩ tôi luôn luôn có mặt trong các cuộc thăm viếng thắng cảnh vì ba tôi và
các thân hữu thường chỉ đi vào ngày chủ nhật.
Nhà tôi ở bên cạnh một
ngôi đình tên là Đình Xương Huân. Đình có cây me lâu năm, tàn xõa trùm lên ngôi
nhà bếp của chúng tôi. Đến mùa me có trái, thấy chúng tôi nhìn chùm me chín mà
thèm song không thể nào hái được. Chú Yến Lan bắt thang leo lên mái nhà hái đem
xuống cho chúng tôi. Vừa khi ấy ba tôi đi làm về. Chú Lang sợ ba tôi rầy nên
vừa đánh đu trên nhánh me vừa cười giả lả: - Anh Tấn ăn me chín được không?
Ngưỡng mộ tấm lòng của chú nên hình
ảnh hái me vẫn sống mãi trong lòng ba tôi. Trong hồi ký ba tôi có viết:
“Hình ảnh ấy trong mấy mươi năm vẫn
sống trong lòng tôi. Mùa thu năm Mậu Thân (1968) lòng bỗng nhớ Yến Lan da diết,
tôi ra đứng tần ngần dưới gốc me. Bổng một trận lá me vàng tuôn xuống làm sống
dậy bóng dáng cố nhân! Gần 15 năm ly biệt, không một tin đưa! Bồi hồi, ảo não
tôi viết được một bài lục bát:
Me thu lã chã mưa vàng /Bóng thu hiu hắt
bóng chàng năm xưa
Bấy chầy cách trở nắng mưa / Đời Ly Tao
ngọt hay chua hỡi lòng.
Thời tiền chiến, nhờ sống trong một
môi trường an lành, sung túc nên tình bạn chỉ biết vui trong niềm vui gia đình,
bạn hữu. Mùa hè sống với trời mây biến cả. Tết, ngao du Bình Định, Nha Trang.
Kỷ niệm đầy đủ và nên
thơ nhất là tình bạn sum vầy dưới khóm mận trước sân. Cây mận sống đã lâu năm,
cành lá sum suê tỏa bóng mát đầy sân là nơi ba tôi và các bằng hữu thường trải
chiếu hoặc bắt ghế ra ngồi trong nhưng buổi trưa. Khi mận ra hoa thì râu hoa
rụng đầy sân như tuyết phú, khi trái chín thì màu đỏ của trái làm ngây ngất
lòng thi nhân. Cảnh mận ra hoa, mận chín và sự sum họp của bạn hữu chứa chất
vào trong thơ của ba tôi. Như
Gốc mận ba cành huê lại huê / Đường xa ba
bạn mãi chưa về.
Bóng sân trải chiếu chờ tin mộng / Bướm
chập chờn hương gió bốn bề.
Sau hiệp định Geneve (1954) Yến Lan và gia đình tập kết ra
Bắc, Quách Tấn và gia đình trở lại Nha Trang. Trước khi chia tay hai người thơ
gặp nhau tại Bồng sơn trong một buổi học tập chính trị. Lúc giải lao hai người
sánh vai nhau dưới bóng dừa. Nghe Yến Lan nói sắp phải tạm xa nhau. Quách Tấn khuyên
Yến Lan nên ở lại vì đi tập kết chỉ có hai năm. Yến Lan tuy ưng thuận song còn
ngập ngừng nên gởi cho Quách Tấn ba bản thảo: hai tập thơ “xa Xăm” và “Kết
Giao” cùng một tập kịch thơ “Bòng Giai Nhân”. Sau đó thím Yến Lan vào Nha Trang
và nhận nơi Quách Tấn một bức thư gởi cho Yến Lan tin cho biết tên tỉnh trưởng
Phú Yên là Lương Duy Ủy đã có kế hoạch thủ tiêu những người ở lại (trong đó có
Yến Lan) vậy Yến Lan nên đem gia đình đi tập kết.
Suốt hai mươi năm trời
(1955-1975) kẻ Bắc người Nam lòng thương nhớ không lúc nào nguôi
Nước chia đôi nhà cũng chia đôi / Anh Nam em Bắc bạn phương trời
Chờ mong mộng luống chìm theo mộng / Thương nhớ lời không dám rỉ lời
Nước chia đôi nhà cũng chia đôi / Anh Nam em Bắc bạn phương trời
Chờ mong mộng luống chìm theo mộng / Thương nhớ lời không dám rỉ lời
Trong những ngày xa cách, Yến Lan có viết
một bài thơ nhan đề “Nhà Tôi Đó” đề tặng Quách Tấn. Bài thơ làm tháng 6 năm
1957 dài 227 câu. Có những đoạn như:
Anh từ bảy bến đò cách quãng
Tìm đến nhau như vệt nắng vàng hanh
Và cảm động nhất là đoạn kết:
Chính anh đang đi trên đường phố Chợ
Chân dừng lại trước gian nhà tôi ở
Nhịp bước rộn ràng động thức mấy cây xoan
Anh lại gần
Gọi khẻ: “Yến Lan
Gió đã lạnh hãy mặc thêm chiếc áo
Đốt điếu thuốc và cùng mình đi dạo”….
Bích Khê và Hàn Mặc Tử:
Hàn Mặc Tử là Nguyễn Trọng Trí,
sinh năm 1912 mất vào ngày 11.11. 1940; quê Quảng Bình, đã xuất bản tập thơ
“Gái quê” 1936. Năm 1935, tại Phan Thiết, Hàn Mặc Tử quen cô thiếu nữ có khuôn
mặt bầu bỉnh dễ thương. Đó là cháu gọi Bích Khê bằng cậu. Từ sự đam mê thơ của
Tử, cô thường đem thơ Tử khoe với cậu và ngược lại, lấy thơ cậu cho Tử xem và
họ trở nên thân thiết. Ban đầu, đọc thơ nhau, Tử và Khê không ai phục ai. Đến
khi, đọc “Hương thơm và mật đắng” thì Bích Khê đã thốt lên: “Hàn Mặc
Tử đã đi trước ta quá xa, đây hẳn là thiên tài!”. Còn Tử, sau khi đọc ba bài thơ Bích Khê gởi tặng (đầu
năm 1938) “Thi Tứ” “Ảnh ấy” “Thời gian” liền nhận ra ở Bích Khê một tài năng
thơ, khiến người đọc đê mê da diếc. Hàn biên thư khích lệ để Khê làm được bài
nào gửi ra bài ấy. Song, Hàn thất vọng, vì không chọn được bài nào trong số đó,
bèn trả lại kèm thư chọc quê Khê cốt để bạn tự ái mà viết hay hơn. Quả nhiên,
sau khi đọc thư Hàn, Bích Khê trút giận vào tập thơ, xé nát không chút luyến
tiếc. Cơn giận lui, Bích Khê tự thách thức: “Trong sáu tháng sẽ trở thành một
thi sĩ phi thường, bằng không, sẽ không bao giờ làm thơ nữa.” Nhưng, chỉ ba
tháng sau, một khát vọng sống, khát vọng yêu và khát vọng thi ca làm cho nguồn
thơ vô tận từ trái tim Bích Khê tràn ra đầu bút. Ông hoàn tất đúng như ý
nguyện; mỗi chữ, mỗi câu thơ đều thể hiện tình yêu đôi lứa mạnh như bom tấn;
chân thật mà lãng mạn, mãnh liệt mà không sáo rổng, mang sắc thái của dòng thơ
mới, rất lạ và độc đáo. Áng thơ chất chứa cả tinh huyết, dung mạo của ông qua
bao đêm miệt mài, ông phờ phạc, tóc ở thái dương bạc trắng! Ông gửi vào cho
Hàn. Quả nhiên, ngốn hết tập thơ, không có chỗ nào để chê bạn được nữa. Bằng sự
trân trọng và ngưỡng mộ, Hàn viết lời tựa tập thơ:
“Một bông hoa lạ nở hương, thứ
hương quí trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc”. Sau đó Hàn giới thiệu Bích Khê
với nhóm “Tứ Linh”
Bích Khê đến với Hàn, lúc Hàn đang
mang căn bệnh quái ác nhưng Tử không thấy mặc cảm với Bích Khê, vì Khê đối xử
với Hàn quá ư triều mến, thân thiết; như nắm tay, ôm choàng bạn mỗi khi gặp Tử.
Một cử chỉ không thể có, ngay cả với người thân trong gia đình, làm mềm lòng
Tử. Thật tiếc! đôi bạn tài hoa và nặng tình ấy, gần nhau chưa tới ba mùa xuân
thì Tử bị gom vào nhà thương Qui Hòa. Thương nhớ bạn, Bích Khê viết bài “Hàn
Mặc Tử” được Quách Tấn và Chế cho là giai tác. Bài thơ chưa kịp đến an ủi
Tử, thì Bích Khê nhận hung tin Tử qua đời. Thơ nhớ thành thơ điếu bạn.!
Với Quách Tấn
Năm 1941, qua giới thiệu của Tử,
Bích Khê đến Nha Trang tìm gặp Quách Tấn. Lần đầu gặp mà hai người như đã thân
nhau lâu rồi. Nhà bác Tấn lúc đó là điểm hẹn văn hóa. Các văn sĩ tứ xứ, ai có
máu nghệ sĩ đều đến đây nghỉ chân và gửi lại Trường Xuyên (bút hiệu Q. Tấn)
văn, thơ và bản thảo. Vì lẽ đó, mà Bích Khê đã lưu lại đây một thời gian để
nghiền ngẫm, nghiên cứu và giao lưu cùng bạn văn chương…
Từ nơi này, Bích Khê đã hấp thụ
những tinh hoa của thơ Đường, và là nơi Bích Khê tiếp cận cả nền văn học
Đông-Tây-Kim-Cổ. Đặc biệt hầu như toàn bộ những tác phẩm của Hàn Mặc Tử,
Yến Lan, Chế Lan Viên đã xuất bản đều có trên giá sách nhà này. Lúc đầu Bích
Khê cố lưu lại thêm vài hôm nữa để gặp các bạn nhưng thấy bệnh không thuyên
giảm lại càng nặng thêm, Bích Khê đành cáo lỗi về quê cho dù bác Tấn can ngăn
bằng lời khuyên hãy chửa khỏi bệnh rồi hãy về; song le, Bích Khê vẫn một mực từ
chối.
Thế rồi thời loạn lạc đến, bác Tấn
tản cư về Trường Định - không lâu sau đó thì nhận được tin Bích Khê qua đời,
thương bạn bác viết : Ngắm vội
trời Thiên Ấn / Cố Nhơn ơi cố nhơn / Bóng theo Hàn Mặc Tử / Tâm gửi Ngũ Hành
Sơn / Danh vọng đài mây vút / Anh Ba biển sóng dồn / Đã hay nghìn tuổi thọ /
Thương nhớ lụy đói cơn.
Với Chế Lan Viên
Năm 1937, Chế Lan Viên nổi
tiếng trong cả nước với tập thơ “Điêu tàn”. Bích Khê sửng sốt thốt lên rằng “cậu
bé này quả nhiên là một thần đồng”, ông tìm cách gặp Chế. Người trong giới
bảo thơ Chế và Khê giống nhau; có cùng tâm thức và thịnh tình với các nhà thơ
phương Tây như Valery, Bauderlaire, Edga v.v... Lúc Bích Khê đang điều
trị ở viện bài lao Pasquier, chú Chế và chú Nguyễn Đình có đến thăm. Khi chia
tay, Bích Khê buồn, nói qua làn nước mắt: “Bao giờ mình gặp lại nhau nữa! mà
chắc gì chúng ta còn có dịp gặp lại ?!
Cuối năm 1943 Bích Khê gửi tập
“Tinh hoa” vào Nha Trang, nhờ Chế đề tựa sẵn chờ có tiền sẽ xuất bản. Chú Chế
nhận lời, đọc hết tập thơ. Một cảm giác lạ như có dòng điện chạy qua sống lưng,
cảm giác hiếm hoi ở Chế khi đọc thơ bạn, mà bấy giờ chú đã dành những lời châu
ngọc để ca ngợi về tài thơ của Khê, và đã viết sẵn lời tựa. Song, cuộc đảo
chính của Nhật hất Pháp; chiến tranh bùng nổ...cảnh ly biệt.., Chế đành gác
lại. Rồi, Bích Khê qua đời! Món nợ với người quá cố đeo đẳng mãi trong Chế. Đến
năm 1987, bạn văn và gia đình Khê đã cất công tìm rồi tập họp di cảo của Bích
Khê giao lại cho Chế. Nhờ vậy, chú Chế đã hoàn thành việc mà Bích Khê ký thác
hơn nữa thế kỷ qua.
Với Yến Lan
“Tiền và Hậu Ngũ hành sơn”
là hai bài thơ nổi tiếng của Bích Khê được Chế Lan Viên đánh giá cao hơn bài
“Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp. Nhà thơ Nguyễn Đình chép được khi đến thăm
Bích Khê, tặng lại cho Yến Lan. Yến Lan xem thơ, mến phục tài Bích Khê
và muốn gặp bạn để thật tỏ tường.
Trên đời này, mọi sự gặp gỡ nhau có
lẽ do trời xếp đặt. Một chiều thu, ba tôi đang trầm tư trước tờ giấy kẻ ô vuông
với những câu thơ đang làm dở. Đột nhiên, một thanh niên xuất hiện với chiếc
túi nhỏ trên vai. Tuy chưa xưng danh, nhưng ông nhận ra người lữ khách giang hồ
gầy guộc, nước da xanh, thoảng húng hắng ho là tác giả những vần thơ: (Kim,
Mộc, Hỏa, Thổ lạy/Trên, dưới, đất, Trời chầu) Ông vui vẻ đỡ chiếc túi xách trên vai
bạn rồi đưa vào gian nghĩa tự chùa - nơi trước đây đã gặp Hàn Mặc Tử, Nguyễn
Công Hoan. Bích Khê lúc này, trông mỏi mệt. Ông ở lại chùa hai ngày rồi vào Nha
Trang, tìm thầy chữa bệnh. Biết bạn đang mang bệnh hiểm nghèo (bệnh lao thời đó
thuộc loại khó chữa), Yến Lan nghĩ chắc bạn rất cần sự giúp đỡ nên sắp xếp việc
nhà rồi vào Nha Trang gặp bác Tấn bàn cách giúp Bích Khê. Sự giúp đỡ của họ đối
với Bích Khê được Báo Kiến
Thức & Ngày Nay số 206
ngày 20-4-1996 ghi theo lời kể của ba tôi-nhà thơ Yến Lan qua bài viết:
“Tiếng gọi đò trên Bến My Lăng”
- Tôi quen Bích Khê khi anh
lâm bệnh nặng. Lúc đó tôi dạy học cho trẻ em hàng xóm kiếm sống. Tôi thương
Bích Khê và phục tài anh lắm. Tôi bàn với Quách Tấn đưa Bích Khê vào Nha Trang
tìm cách nuôi nhau. Chúng tôi góp tiền thuê một nhà nhỏ ở phường Củi cho Bích
Khê. Ở Nha Trang được một thời gian ngắn, Bích Khê không nói lời nào bỏ đi,
chúng tôi chia nhau đi tìm, nhưng không thấy. Chính Nguyễn Đình đã vô tình gặp
lại Khê. Bọn tôi, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình bàn đưa Bích Khê ra Huế
chữa trị, an dưỡng. Về kinh tế tùy theo hoàn cảnh từng người giúp Bích Khê. Tôi
chưa vướng bận vợ con, mỗi tháng góp 30đ, Chế Lan Viên phải nuôi cha mẹ già và
hai chị, góp 10đ, Nguyễn Đình 20đ, Quách Tấn có vợ, con đông, góp 20đ. Chị Tấn
đảm nhận việc thu và gửi ra tận viện Pa-ski-ê cho Bích Khê.” Một thời
gian sau, tôi nhận được phong thư viết bằng bút chì. Ngoài bì thư đề:
Kính gửi : Ông Yến Lan
Yến Lan!
Mình rất cảm ơn cậu và các bạn đã chăm lo
cho mình. Bây giờ mình không còn chịu đựng được nữa, mình đành vĩnh biệt cuộc
sống, vĩnh biệt bạn bè!”
Ký tên:Bích Khê
Tôi trích bài này là để chứng minh
“nói có sách, mách có chứng”, lý
do có người cho rằng tôi bịa. Vì mối quan hệ của các ông Quách Tấn, Yến Lan,
Bích Khê, Chế Lan Viên thời đó đều được bác Tấn đưa vào hồi ký nhưng trong hồi
ký lại không có từ nào nói tới vấn đề này (Vì con số quá chi tiết - không tế
nhị). Tôi nghĩ đã đến lúc mình cần thành thật với chính mình rồi..!
Lâm Bích Thủy
No comments:
Post a Comment