Lời giới thiệu của nhà thơ Kha Tiệm Ly:
Kính gởi quý báo,
Tôi hân hạnh đã đọc được những bài viết của GS Minh Di (Úc), và vô cùng thán phục kiến thức kinh người của GS. Nhờ đọc những bài viết nầy mà tôi mới thấy mình đã sai sót, quá yếu kém trong lãnh vực nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, xin quý độc giả đọc với sự dè dặt.
Tôi trân trọng gởi đến quý báo bài đầu tiên, quý báo tùy nghi sử dụng.
Kha Tiệm Ly
PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ I) - GS Minh Di
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam . Phê bình (3).
01 – 50 (55).
< Để nhớ
bạn Lê Hòa Huyền Thanh Lữ >.
Dẫn nhập.
Cách đây khoảng hơn 3 năm không
lâu (khoảng giữa năm 2008) tôi viết 2 Bài phê bình bộ “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam” (LSPGVN),
tất cả 4 Tập, của Lê Mạnh Thát.
2 Bài phê bình này nêu lên những
khiếm khuyết của Lê Mạnh Thát về mặt
Hán văn, về mặt kiến thức Văn học, Sử học (Trung Hoa), và kể cả kiến thức Phật
giáo.
2 Bài phê bình này tôi chỉ mới
duyệt qua Tập I của bộ LSPGVN.
Bài phê bình thứ 2 xong ngày 8
tháng 5 năm 2008.
Sau đó tôi định phê bình tiếp,
nhưng vì cần viết 1 số bài khác nên tôi gác lại việc này.
+ Với một cuốn sách liên quan Lịch sử Cổ Trung Hoa và Việt Nam
như cuốn LSPGVN ở đây thì điều tất
yếu người viết phải thông hiểu Hán văn.
Thế nhưng, trong 2 Bài phê bình kể trên tôi đã đưa ra những
chứng cứ rất rõ ràng rằng khả năng Hán văn của người biên soạn Lê Mạnh
Thát rất thấp!
Về chữ nghĩa, ngay đến những chữ thông thường nhất Lê
Mạnh Thát cũng không hiểu nói chi là về phương diện cú pháp, ngữ pháp!
Lê Mạnh Thát muốn lập luận chiều
nào, hướng nào cũng được - mặc
lòng! Thế nhưng trình độ căn bản về ngôn ngữ, văn tự - ở đây là Hán văn, rồi kiến thức Cổ Sử học,
và kiến thức Phật học, của ông ta đã không có thì có chỗ nào cho ông ta đứng
(lập) đây?
Trong cuốn LSPGVN khi trích dẫn thư
tịch
Hán văn Lê Mạnh Thát chỉ đưa ra phần dịch (chỉ trừ những bài thơ) chứ
không ghi lại nguyên tác, do đó,
không thể biết ông ta dịch đúng hay sai nếu không có những tài liệu đó trong
tay.
Những Sử liệu Hán văn Lê Mạnh
Thát trưng dẫn nếu tôi có thì tôi phê bình, còn những Sử liệu nào tôi không có, như tập “Thiền
Uyển Tập Anh” chẳng hạn, thì nếu ông ta có dịch không đúng thì không
sao mà rõ được!
Có điều, qua mấy bài phê bình trước đây của tôi người đọc có thể thấy được khả
năng Hán
văn của Lê Mạnh Thát ra sao, từ đó sẽ có nhận định về giá
trị tập LSPGVN, có lẽ tôi không cần nói thêm!
Vào thời kỳ Hán văn suy tàn này,
thực sự chuyên tâm học tập thứ văn tự này chẳng có bao nhiêu, trong khi số kẻ
võ vẽ lại ba hoa muốn thiên hạ biết tài của mình thì nhiều!
&
Nhìn chung thì thời bây giờ, ở
cảnh “vu xứ” này, người ta rất
thích nói Hán văn, có điều không chịu tra cứu để coi những gì mình nói ra,
viết ra có chính xác hay không?
Nhìn theo một góc độ nào đó thì người ta thích vậy cũng phải, vì có những trường hợp dùng tiếng Hán
Việt thì rất “sướng miệng”, “khoái tay”, dù rằng tiếng Việt cũng
có tiếng diễn tả được nhưng người ta vẫn cứ thích dùng tiếng Hán Việt! Cho nó
kêu!
Tháng trước đây (ngày 21/7/
2011), tôi đọc được Bản tin về lễ tấn phong 3 Thượng tọa Thích Phước Nhơn, Thích Viên Lý, Thích Ân Đức
lên Hòa Thượng.
Bản tin này có đoạn viết về 3 vị Hòa Thượng mới
kể trên như sau:
-
“.....Sau nghi thức Niệm Phật Cầu Gia Bị, TT. T Viên Huy đã
trình bày về Giáo chỉ Tấn phong cũng như vài nét sơ lược về hành
trạng của quý Ngài...”.
+ Người viết Bản
tin nói trên không biết rằng tiếng “hành trạng”
là một thể văn thời cổ tự thuật việc làm của người chết lúc
sinh thời. Văn tập của các học giả, danh nhân xưa có những bài “hành trạng”
tự thuật công nghiệp, ngôn hành của người chết.
Chẳng hạn:
Văn hào Hàn Dũ (768 - 824) đời
Đường (618 - 907) có các bài:
- Tặng
Thái phó Đổng công Hành trạng.
- Đường
cố tặng Phong Châu Thích Sử Mã phủ quân Hành trạng.
(Tham khảo “Hàn
Xương Lê Văn Tập”. Qu.VIII. Tạp văn. Trạng. Biểu).
Văn hào Vương An Thạch (1021 -
1086) thời Bắc Tống (960 - 1127) có các bài:
- Thượng
Thư Binh Bộ Viên ngoại lang Tri chế cáo Tạ công Hành trạng.
- Chương
Vũ Quân Tiết Độ Sứ Thị trung Tào Mục công Hành trạng.
(Tham khảo “Vương
Lâm Xuyên Toàn Tập”. Qu. XC. Hành trạng. Mộ biểu).
Ba Thượng
tọa Thích Phước Nhơn, Thích Viên Lý, Thích Ân Đức vừa được
tấn phong liền được người viết Bản tin cho qua đời luôn,
liền một khi! Thiệt là tai hại!
Cũng chỉ vì thích tiếng “Hành
trạng” nghe “thật kêu” mà người viết Bản tin cho cả 3 ông Hòa Thượng mới
được tấn phong đi khỏi cõi đời này!
&
Cảm khái lan man vài giòng ngoài
lề bây giờ tôi xin tiếp tục nêu ra sự yếu kém căn bản (Hán văn) của Lê Mạnh
Thát!
&
(KỲ 1)
Trong phần “THAY LỜI TỰA”
cho Tập 2 của Cuốn “LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM” Lê Mạnh Thát có một đoạn “bổ sung tư liệu bị thất thoát trong đợt in vừa rồi của tập I”.
Trong đoạn này, khi nói về ngôi
Chùa tên “Địa Ngục” (Địa Ngục Tự), Lê Mạnh Thát dẫn cuốn “Kiến Văn Tiểu Lục”, và
dịch một đoạn như sau:
- “.…Trên đỉnh núi
cao có chùa Đồng Cổ (…) Suối
từ sườn núi chảy ra, trái gọi là suối Bạc, từ chùa bên phải chảy ra. Chùa bên phải này vuông vắn độ hơn một trượng, tượng toàn bằng đá, cánh cửa
hai bên khóa chặt lại bằng khóa sắt lớn, trên có
viên đá khắc chữ triện Địa Ngục
Tự”.
Bây giờ chúng ta hãy coi Lê Quí
Đôn viết ra sao:
- “…Trùng
sơn chi điên hựu hữu Cổ Đồng Tự, thượng, hạ đãi nhị nhật lực.
Tòng Giải Oan khê tả trắc du thượng sơn, chí liên hồ, thủy giai bích, trung hữu kỳ
thạch, hồng liên tứ thời giai hoa. Hồ
ngoại lưỡng bàng tuyền tự sơn yêu xuất, tả viết Ngân
tuyền, kỳ nguyên tự sơn đầu thạch khích nhi há, vọng chi như luyện; hữu viết Kim tuyền tòng hữu tự xuất. Hữu tự phương tài trượng dư, ốc bích thuần
thạch, lưỡng môn phi dụng đại thiết tỏa phong chi, thượng hữu thạch
khắc triện văn viết “Địa Ngục Tự”.
/ Kiến Văn Tiểu Lục. Qu. VI. Phong
vực /.
- “….
Trên đỉnh núi chập chùng lại có Chùa Cổ Đồng, lên xuống chùa phải mất gần 2
ngày.
Từ mé trái suối Giải Oan trèo lên núi tới hồ sen, nước hồ xanh biếc, trong hồ có
tảng đá kỳ lạ, sen đỏ bốn mùa nở hoa.
2
bên hồ có suối từ lưng núi đổ xuống, suối bên trái tên Ngân tuyền bắt nguồn từ
khe đá trên đầu núi đổ xuống, coi như 1
giải lụa trắng; suối bên phải tên Kim tuyền, từ ngôi chùa bên phải chảy ra.
Ngôi chùa bên phải này vuông vức hơn một
trượng, vách chùa toàn bằng đá, 2 cánh cửa chùa dùng khóa lớn
bằng sắt khóa lại, trên đầu cửa Chùa có khối đá, trên mặt đá
khắc chữ triện đề “Địa Ngục Tự”.
Đối chiếu nguyên tác mới thấy
Lê Mạnh Thát dịch sai, và thiếu, một số điểm:
1). Nguyên tác chép rõ là “Trùng
sơn chi điên”, nghĩa là “trên đỉnh núi chập chùng”, tức
không phải chỉ “trên đỉnh núi cao” mà thôi, thiếu ý “chập chùng”.
2). Suối Bạc (Ngân Tuyền) từ
lưng núi ở mé bên trái của hồ sen chảy ra, không phải là
từ ngôi “chùa
bên phải chảy ra” như Lê Mạnh Thát dịch sai.
3). Nguyên tác nói rõ “vách
chùa toàn bằng đá”, không phải “tượng
toàn bằng đá”, như Lê Mạnh Thát dịch.
4). “trên có viên đá”, câu
này gây hiểu lầm là “viên đá” nằm trên mặt cánh cửa Chùa.
Lại một
đoạn khác, Lê Mạnh Thát dịch trọn phần tiểu sử Luật sư Trí Hoằng chép
trong cuốn “Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao
Tăng Truyện”:
“Luật sư Trí Hoằng người Lạc Dương, là cháu của đại sứ Vương Huyền Sách
từng đi sứ Tây Vực. Khi tuổi
còn nhỏ, đã thích lẽ huyền vi. Lòng khinh chốn phồn hoa giả dối, ý muốn ở ẩn núi rừng. Bèn đến núi Thiếu Lâm, ăn đọt tùng, uống
nước suối, thích tụng kinh điển, lại giỏi văn bút. Thế rồi hiểu được sự ồn ào
của phố thị, vắng lặng của cửa pháp, bèn rời tám sông mà đi
về Ba Ngô, bỏ áo trắng mặc lấy áo nâu, thờ Ta thiền
sư làm thầy. Học lấy tư huệ, chưa trải nhiều năm mà đã ít nhiều thấm được cửa
huyền. Lại đến chỗ của Nhẫn thiền sư ở Kế Châu liền tập lại thiền định. Song
gốc lành đã trồng, mà cành lớn chưa phát, bèn vượt sông Tương đến núi Hoành, vào rừng
Quế mà nghĩ suy, sống suối xa mà dứt lòng. Trải hơn năm, nhờ Tịch thiền sư y chỉ,
thấy núi sông đẹp đẽ, xem rừng rú thanh hư, bèn múa bút tả nỗi lòng, viết nên
bài phú U
thiền sư, giải
bày mong ước được đi xa.
Khi đã gặp hết bậc tôn túc của
vùng Tam Ngô, đến hết các trường dạy để học, lại trải qua bạn bè đất Cửu Giang, mấy lần bàn lẽ diệu. Song gốc lành xưa trồng, chẳng
phải do con người tặng lại. Cho
nên từ kinh
đô muốn đi xem Tây Thiên,
may gặp thiền sư Vô Hành, cùng làm bè bạn. Họ đến Hợp Phố, lên thuyền vượt dài biển xanh. Song gió không tiện đường, bèn trôi dạt
đến Thượng Cảnh, lại nhắm Giao Châu ở qua một hạ. Lại đến cuối đông thì ra bờ
biển Thần Loa, theo thuyền đi về phía Nam . Đến nước Thất Lợi Phật Thệ.
Còn những chi tiết trải qua thì đã đầy đủ ở trong truyện của Hạnh thiền sư.
Đến chùa Đại Giác ở qua hai năm,
chiêm ngưỡng tôn dung, tỏ hết lòng thành, đọc kinh tiếng Phạn. Tháng cũ ngày mới, bèn hiểu tiếng ấy, có thể viết tiếng Phạn, học
luật nghi, ngiên cứu luận tạng. Khi đã hiểu Câu xá, lại rành nhân minh, thì ở chùa Na Lan Đà chuyên xem đọc đại
thừa. Còn ở đạo tràng Tính
giải thì
chuyên nghiên cứu tiểu
giáo. Lại đến các bậc danh
đức, học thêm luật nghi một cách siêng năng không quên tức bóng. Lại học luật kinh do luật sư do luật sư
Đức Quang viết ra, vừa nghe vừa dịch, thật có công phu, khéo giữ bè nổi, không chút thiếu sót. Thường ngồi không
nằm, tri túc thanh liêm, vâng trên dạ dưới. Ở lâu người ta càng thêm kính trọng……
(LSPGVN2. tr. 164, 165).
Những cái
sai của Lê Mạnh Thát trong đoạn dịch văn trên:
1). “Khi tuổi còn nhỏ”.
Nguyên tác: “Niên
tài nhược tuế”.
Lê Mạnh Thát không biết rằng
tiếng “nhược tuế” trong câu trên tức “nhược quán”, là
độ tuổi làm lễ “gia quan” (đội mũ), tức 20 tuổi (ta).
2). “thích lẽ huyền vi”.
Nguyên tác: “hạp
xung hư”.
Chữ “hạp” có
nghĩa là “thân cận, thân mật”, là “thói quen” (tập quán).
Tiếng “xung hư” có
nghĩa là “đạm bạc, thanh tĩnh, không ràng buộc”.
3). “Lòng khinh chốn phồn hoa giả dối”.
Nguyên tác: “chí
miệt khinh phì”.
Lê Mạnh Thát không biết rằng
tiếng “khinh phì” là 2 tiếng “khinh cừu” và “phì
mã” được viết gọn lại.
Khinh cừu là “áo
da chồn nhẹ”, phì mã là “ngựa mập”. Chỉ sự giàu sang.
Sách “Luận Ngữ” viết:
- “Tử Hoa
sứ ư Tề, Nhiễm tử vị kỳ mẫu thỉnh túc, Tử viết: Dữ chi phủ.
Thỉnh ích, viết: Dữ chi dũ.
Nhiễm tử dữ chi túc ngũ bỉnh!
Tử viết: Xích chi thích Tề dã
thừa phì mã ý khinh cừu, ngô văn chi dã, quân tử chu cấp bất kế
phú!”.
/ Luận Ngữ. Ung Dã VI. 04 /.
- “Tử Hoa đi sứ nước Tề, Nhiễm tử xin cấp lúa gạo cho mẹ
Tử Hoa.
Khổng
Tử nói: - Cho bà ấy 64 thăng.
Nhiễm
tử xin thêm, Khổng Tử nói: - Cho bà ấy 160 thăng.
(Nhưng)
Nhiễm tử cấp cho mẹ Tử Hoa tới 8000 thăng lúa!
Khổng
Tử nói: - Xích qua nước Tề cỡi ngựa mập, bận áo da chồn nhẹ, ta
nghe nói bậc quân tử giúp người gặp cảnh ngặt nghèo, không giúp cho kẻ có dư!
Chu
Hi (1130 - 1200) chú thích:
- “Thừa phì mã, ý khinh cừu, ngôn kỳ phú
dã!”.
- “Cỡi ngựa mập, bận áo da chồn nhẹ, ý nói
Tử Hoa giàu có!”.
Đỗ
Phủ (712 - 770) có câu:
Đồng học thiếu niên đa bất tiện,
Ngũ Lăng y, mã tự khinh phì.
Đồng học thiếu niên ít kẻ khó,
Ngũ Lăng áo,
ngựa những khinh phì.
Trên
đây là 2 câu cuối của bài thứ 3 trong 8 bài “Thu Hứng”.
Ngoài
ra, Lê Mạnh Thát còn “cương” tiếng “giả dối”; trong Câu dẫn trên của nguyên tác không có chữ nào
nghĩa là “giả dối” hết!
4).
“…. bèn rời tám sông mà đi về Ba
Ngô”.
Nguyên
tác: “…. toại bội Bát thủy nhi khứ Tam Ngô”.
Cũng
vì không hiểu những tiếng trên đây, nói rõ hơn là không rõ về Địa lý, cho nên
ông Lê Mạnh Thát đã dịch rất hàm hồ, ngớ ngẩn như trên!
Bát
thủy, còn gọi là Bát xuyên,
chỉ 8 con sông ở vùng Quan Trung.
Từ
Kiên (659 ? - 729) đời Đường trong bộ “Sơ Học Ký”:
- [Sự đối]……
Bát thủy, Tam xuyên……
Đới
Diên Chi “Tây Chinh Ký” viết: - “Quan nội Bát thủy: nhất Kinh, nhị
Vị, tam Bá, tứ Sản, ngũ Lạo, lục Quyệt, thất Lễ, bát Hảo”.”.
/ Sơ Học Ký. Qu. VI. Địa bộ - Trung. Tổng tái Thủy đệ nhất /.
- [Sự đối]……
Bát thủy, Tam xuyên……
Tập
“Tây
Chinh Ký” của Đới Diên Chi chép: - “8 con sông vùng Quan nội:
1 là sông Kinh, 2 là sông Vị, 3 là sông Bá, 4 là sông Sản, 5 là
sông Lạo, 6 sông Quyệt, 7 sông Lễ, 8 sông Hảo”.”.
Quan
Nội, hoặc còn gọi Quan
Trung, đại khái là địa khu tỉnh Thiểm Tây hiện nay, do đó cho dễ hiểu và rõ
phải dịch câu “bội Bát thủy” là “rời vùng Quan Trung”.
Tam
Ngô.
1/.
Thủy
Kinh Chú (Qu. XL. Tiệm giang thủy): Ngô Hưng, Ngô Quận, Cối Kê.
2/.
Thông
Điển (Qu. CLXXXII. Châu Quận 12): Ngô Quận, Ngô Hưng, Đơn Dương.
3/.
Chỉ
Chưởng Đồ: Tô Châu, Thường Châu, Hồ Châu.
4/.
Danh
Nghĩa Khảo (Qu. III. Địa bộ): Tô Châu, Nhuận Châu, Hồ Châu.
Nghĩa
Tĩnh là người đời Đường, Đỗ Hựu (735 - 812), tác giả Bộ “Thông
Điển”, cũng là người đời Đường, do đó Địa lý Hành chánh ở đây
theo ghi chép của Đỗ Hựu.
5).
“đến núi Hoành, vào rừng Quế”.
Chữ
“Hoành” phải là
chữ “Hành” mới đúng.
Lê
Mạnh Thát không biết “rừng Quế” ở
đây phải để nguyên là “Quế Lâm”, một địa danh thuộc tỉnh Quảng Tây.
6).
“sống suối xa mà dứt lòng”.
Nguyên
tác: “khoa Hành Lãnh, nhập Quế Lâm nhi thác
tưởng, độn u tuyền dĩ tức tâm”.
Dịch
chính xác phải là:
- “vượt Hành Sơn, vào đất Quế Lâm mà suy tư,
ẩn mình ở chốn núi sâu để tĩnh tâm”.
7).
“viết nên bài phú U
thiền sư”.
Tôi
không rõ Lê Mạnh Thát đọc thế nào mà sai lạc đến thế! Bài phú này tựa chính xác
là “U Tuyền Sơn”, không phải “U thiền sư”
như Lê Mạnh Thát viết.
8). “trải qua bạn bè đất Cửu
Giang”.
Nguyên
tác: “lịch Cửu Giang chi thắng hữu”.
Lê
Mạnh Thát dịch là “bạn bè” thì dịch
thiếu chữ ‘thắng”.
Nguyên
tác nói “thắng hữu”, không chỉ nói “hữu”. “Thắng” nghĩa là
“vượt hơn, tốt đẹp”. Và “thắng hữu” có nghĩa
là “bạn bè hay, giỏi”. “Thắng hữu” đây chỉ thiện tri thức.
9).
“….. Song gốc lành xưa trồng, chẳng
phải do con người tặng lại. Cho nên từ kinh đô muốn đi xem Tây Thiên”.
Nguyên
tác: - “...... Nhiên nhi túc
thực thiện căn phỉ do nhân
tưởng, tự xuất Trung Phủ dục quan lễ Tây Thiên”.
Dịch:
- “......Thế nhưng, [do] thiện căn gieo trồng kiếp xưa cho nên chẳng cần có người khích lệ
mà tự
mình rời Lạc Dương muốn tới phương Tây tìm hiểu sâu xa về Đạo”.
Chữ
“tưởng” trong câu có nghĩa “khích lệ, khuyến khích”,
không có nghĩa “tặng lại” như Lê Mạnh Thát dịch.
Ngoài
ra, tiếng
“Trung Phủ” trong câu trên chỉ đất Lạc Dương (nay là tỉnh Hà Nam), mà
không là “kinh đô” như Lê Mạnh Thát hiểu sai. Kinh đô Đường triều là Trường
An.
Lạc
Dương vị trí ở giữa Trung Hoa cho nên thời cổ cũng được gọi là Trung Châu.
Thời Đường triều đình vài lần lập Phủ tại Lạc
Dương, nên còn được gọi là Trung Phủ.
Trí
Hoằng là người Lạc Dương cho nên Nghĩa Tĩnh nói “Trung Phủ”.
Và
như vậy, câu “xuất Trung Phủ” ở đây phải được dịch là “rời Lạc Dương”.
10).
“cùng làm bè bạn. Họ đến Hợp Phố
lên thuyền, vượt dài biển xanh”.
Nguyên
tác: ‘dữ chi đồng khế, chí Hợp
Phố thăng bạch, trường phiếm thương minh”.
Câu
trên dịch như sau:
- “ý hướng như nhau, (mà cùng) tới Hợp Phố lên thuyền
buôn, lênh đênh trong chuyến hành trình trên biển xa thẳm”.
Ở
một phần sau trong phần ‘Truyện” Vô Hành, Nghĩa Tĩnh chép:
- “Dữ Trí Hoằng vi bạn, Đông phong phiếm
bạch, nhất nguyệt đáo Thất Lợi Phật Thệ quốc”.
/ Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện.
Qu. Hạ. Kinh Châu Vô Hành thiền sư /.
- “Cùng Trí Hoằng là bạn đồng hành, theo gió
Đông lên thuyền buôn, đi một tháng thì đến nước
Thất Lợi Phật Thệ”.
Lê
Mạnh Thát hiểu tiếng “đồng khế” là “bè bạn” là sai.
Tiếng
“đồng khế” ở đây có nghĩa “ý hướng hợp nhau” - và ý hướng nói đây là ý hướng muốn đi đến Ấn Độ học
Đạo.
Chữ
“khế” có nghĩa là “hợp ý” (đầu hợp), “ăn khớp”……,
như nói “khế hợp”.
Bây
giờ tôi tóm tắt từ đầu tự thuật của Nghĩa Tĩnh về đoạn này:
Trước
hết, Trí Hoằng muốn qua Ấn Độ tìm hiểu sâu xa hơn về Pháp. Trên đường đi đó gặp
được Thiền sư Vô Hành cũng có ý hướng như mình (dữ chi đồng khế),
vì vậy cả 2 đi chung với nhau. Tự thuật rất mạch lạc.
Nếu
diễn thêm nữa thì có thể về sau Trí Hoằng và Vô Hành sẽ là bạn; thế nhưng ở đây tự thuật của
Nghĩa Tĩnh không nói điều này! Ngay cả phần
tự thuật về Vô Hành sau đó vài trang
cũng không thấy Nghĩa Tĩnh nói Vô Hành là bạn của Trí Hoằng!
Kế
đến, chữ “phiếm” nghĩa là “trôi nổi” (phiêu phù), trong
câu ý chỉ thuyền “lênh đênh”.
Câu
“trường phiếm” ý nói thuyền trôi lênh đênh trên đường biển xa xôi.
Lê
Mạnh Thát dịch “trường phiếm” là “vượt dài” thì không đúng tinh thần Việt, vì lẽ rằng trong tiếng Việt không ai nói “vượt dài” hết!
11).
“bèn trôi dạt đến Thượng Cảnh”.
Lê
Mạnh Thát đọc ở đâu mà sai lạc đến thế! Tên đúng là Tỉ Ảnh, hoặc Tí Cảnh.
Các
tên gọi này từ trước đến giờ người ta vẫn quen đọc, viết là Tỉ Cảnh.
Về danh xưng “Tỉ
Ảnh” Lịch Đạo Nguyên (469 - 527) đời Bắc Chu (557 - 581) viết trong bộ “Thủy
Kinh Chú”:
- “…… Chí Tỉ Ảnh huyện nhật
trung đầu thượng ảnh đương thân hạ, dữ
ảnh vi tỉ.
Như Thuần viết: “Cố dĩ Tỉ
Ảnh danh huyện”.
Khám Ân viết: “Tỉ độc
“ấm tí chi Tí”, ảnh tại kỷ hạ, ngôn vị thân sở tí dã!”
/ Thủy Kinh Chú. Qu. XXXVI.
Ôn thủy chú /.
- “…Tới huyện Tỉ Ảnh, giữa trưa bóng nắng trên đầu ngả dưới thân.
Như Thuần nói: - “Cho nên lấy tiếng “Tỉ Ảnh” đặt tên cho huyện”.
Khám Ân nói: - “Chữ “Tỉ” đọc là “Tí” (che) trong tiếng “ấm tí”
(che chở), bóng nắng ngả dưới thân mình, ý nói (bóng) được
thân che chở”.”.
(Như Thuần (? - ?) là
học giả triều Ngô (223 - 280) thời Tam Quốc (220 - 280).
Khám Ân (? - ?) là học
giả triều Bắc Chu (557 - 581) thời Nam Bắc triều (420 - 589).
Tỉ Ảnh là 1 trong 4 huyện thuộc Quận Nhật Nam thời Tây Hán (206 tr. Cn - 08 Cn), lúc Hán Vũ
đế xâm lược nước Nam Việt. 3 huyện kia là Chu Ngô, Tây Quyển, Lư Dung.
Huyện
Tỉ Ảnh nằm ở khoảng giữa 2 tỉnh
Hà Tĩnh và Quảng Bình hiện nay.
Kinh độ 106o 34’. Vĩ độ 17o 40’.
Thời
Trí Hoằng huyện Tỉ Ảnh thuộc lãnh thổ nước Lâm Ấp.
Thời
Đường, địa vực Tỉ Ảnh không thuộc Đường triều. Có lẽ không rõ tên gọi vùng này
của Lâm Ấp lúc đó là gì cho nên Nghĩa Tĩnh dùng danh xưng Địa lý thời Tây Hán.
12). “Tháng cũ ngày mới, bèn hiểu
tiếng ấy”.
Nguyên
tác: “Nguyệt cố nhật tân, nhàn
thanh luận”.
Lê
Mạnh Thát dịch từng chữ một nên câu văn rất ngớ ngẩn.
Câu
“nguyệt cố nhật tân” nếu dịch là “Ngày qua tháng lại” thì đúng tinh
thần Việt hơn!
Kế
tới, câu “nhàn Thanh Luận” Lê Mạnh Thát dịch không xuôi.
Câu
này phải được dịch là “rành rẽ ngôn ngữ văn tự”.
Chữ
“nhàn” (Bộ Môn [cửa, cổng], trong là chữ mộc
[cây]) nghĩa là “thành thục”.
13).
“nhân minh”.
Cho
sáng sủa câu văn phải dịch là “luận lý học”.
14).
“đạo tràng Tính giải”.
Nguyên
tác ghi là “Tín Giải đạo trường”. Đạo tràng Tín Giải đây tức “Chùa Tín Giải”.
Nhưng
tôi nghĩ đây là gõ máy sai, vì ở trang 170 Lê Mạnh Thát ghi đúng là “Tín Giả”.
Có
điều là nếu lộn thì lộn một chữ “Tín” thành “Tính” thôi, sao
lại lộn thêm chữ tiếp liền sau đó là “Giả” thành “Giải”?
Chùa
Tín Giải thuộc lãnh thổ nước Am Ma La Bạt ở phía Bắc sông Hằng.
Và,
như câu “Tại Tín Giả đạo trường nãi chuyên công Tiểu
Giáo.” của Nghĩa Tĩnh thì rõ đây là một ngôi chùa Tiểu Thừa.
Tín
Giả là 1 ngôi Chùa lớn nổi
tiếng. Theo tự thuật của Nghĩa Tĩnh thì ngoài Trí Hoằng các cao tăng như Huyền
Chiếu, Mạt Để Tăng Ha, Tín Trụ, Trí Hành, Huệ
Luân, cũng từng trú ngụ tại Chùa này. Tín Trụ viên tịch tại đây!
15).
“tiểu giáo”.
Lẽ
nào Lê Mạnh Thát không biết “Tiểu giáo” đây tức “Tiểu Thừa
giáo”?
16).
“học thêm luật nghi một cách siêng năng không
quên tức bóng”.
Nguyên
tác: “Khẩn khẩn, cần cần, vô
vong thốn ảnh”.
Dịch
là: Thành khẩn, siêng năng, không lơi giây phút nào”.
Tiếng
“thốn ảnh” tức “thốn âm”, là khoảng thời gian ngắn ngủi.
Câu
“vô vong thốn ảnh” phải dịch là “không quên giây phút nào” - hoặc cho rõ hơn nữa có thể dịch là “không
lơi giây phút nào”.
Câu
“vô vong thốn ảnh” mà dịch là “không quên tức bóng” thì có trời mà hiểu
nổi!
Có
lẽ Lê Mạnh Thát gõ lộn chữ “tấc” (thốn = 1 / 10 xích) thành chữ “tức” (?).
Nhưng
cho dầu là “tấc” đi nữa thì dịch “thốn ảnh” là “tấc
bóng” cũng ít ai hiểu được!
Trong
tiếng Việt nói “tấc lòng” (thốn tâm) thì ai cũng hiểu, nhưng nói
“tấc bóng” thì có lẽ hơi khó hiểu với nhiều người!
17).
“khéo giữ bè nổi, không
chút thiếu sót”.
Nguyên
tác: “Thiện hộ phù nang,
vô khuy phiến kiểm”.
Dịch
là: “(Như) cái phao khéo giữ gìn (giữ cho thân khỏi bị chìm), (đọc) không thiếu sót một luật nghi nhỏ
nhặt nào”.
Tiếng
“phù nang” [túi nổi], còn gọi “khí
nang” [túi hơi], nghĩa là “cái phao”, không phải là cái “bè nổi” như Lê Mạnh Thát dịch.
Thời
xưa người ta dùng da dê, hoặc là da bò…. may thành cái túi, cái bao, thổi hơi
vào cho phồng lên, đem theo khi đi biển, phòng lúc thuyền chìm dùng đây để cứu
mạng.
Chữ
“kiểm” ở đây có nghĩa là “qui luật” (pháp thức), là “ước
thúc”, tức chỉ “giới luật”.
Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” viết:
- “[Phù nang]…….
Kinh
trung dĩ tỉ Giới Luật, hộ trì Bồ Tát chi giới, do như hải nhân chi ư phù
nang dã”.
- “[Phù nang]…...
Trong
Kinh (Phật) lấy cái phao để thí dụ Giới Luật, hộ trì giới luật của Bồ Tát, cũng
như người đi biển đối với cái phao vậy”.
18).
“vâng trên dạ dưới”.
Nguyên
tác: “phụng thượng, khiêm hạ”.
Nghĩa
là: “với người trên thì (hết lòng) hầu hạ, với kẻ dưới thì nhún nhường”.
*
Phần chuyển dịch của tôi sau
đây sẽ cho thấy cái ngớ ngẩn, thiếu mạch lạc - nhiều lúc đến tối tăm, của
đoạn dịch văn dẫn trên của Lê Mạnh Thát.
Nguyên tác đoạn
trên như sau:
- “Trí Hoằng luật sư, Lạc Dương nhân dã, tức sính Tây vực đại
sứ Vương Huyền Sách chi điệt dã! Niên tài nhược tuế tảo hạp xung hư, chí miệt
khinh phì, tình hoài thê độn. Toại vãng Thiếu Lâm Sơn xan tùng phục nhĩ, lạc tụng Kinh điển, phả
công văn bút. Ký nhi ngộ triều thị chi huyên hoa, thượng Pháp môn chi trừng
tịch, toại bội Bát Thủy nhi khứ Tam Ngô, xả tố chi nhi hoán tri
phục.
Sự Tha
thiền sư vi sư, bẩm thừa tư huệ. Nhi vị kinh đa tái tức phưởng phất huyền quan.
Phục vãng Cần Châu Nhẫn thiền sư xứ trùng tu định liễm. Nhi
phương căn tuy thực, sùng điều vị tủng, toại tế Tương xuyên, khoa Hành
Lãnh, nhập Quế Lâm nhi thác tưởng, độn u tuyền dĩ tức tâm, phả kinh
niên tái trượng Tịch thiền sư vi y chỉ. Đổ sơn thủy chi tú lệ, ngoạn lâm bạc chi thanh hư,
huy hàn tả trung, chế “U Tuyền Sơn Phú” thân viễn du chi hoài. Ký lãm
Tam Ngô chi Pháp tượng phả tận phương diên, lịch Cửu Giang chi thắng
hữu, cơ nhàn diệu lý. Nhiên nhi túc thực thiện căn phỉ do nhân tưởng, tự xuất Trung Phủ dục quan lễ Tây
Thiên. Hạnh ngộ Vô Hành thiền sư dữ chi đồng khế, chí Hợp Phố
thăng bạch, trường phiếm thương minh. Phong tiện bất thông, phiêu cư Tỷ Ảnh.
Phúc hướng Giao Châu trú kinh nhất Hạ. Ký chí Đông mạt phục vãng hải tân Thần
Loan tùy bạch Nam du, đáo Thất Lợi Phật Thệ quốc. Tự dư kinh lịch cụ
tại Hành thiền sư truyện nội.
Đáo Đại Giác Tự trú kinh nhị tái, chiêm
ngưỡng tôn dung, khuynh thành lệ tưởng, phúng tụng Phạm bản. Nguyệt cố nhật tân
nhàn “Thanh Luận”, năng Phạm thư. Học Luật nghi, tập “Đối Pháp”.
Ký giải “Câu Xá”, phục thiện nhân minh.
Ư Na Lạn
Đà Tự tắc phi lãm Đại Thừa. Tại Tín Giả đạo trường nãi chuyên công Tiểu
Giáo. Phục tựu danh đức trùng tẩy luật nghi. Khẩn khẩn cần cần vô vong thốn
ảnh! Tập Đức Quang luật sư sở chế “Luật Kinh”, tùy thính tùy dịch, thực
hữu công phu. Thiện hộ phù nang, vô khuy phiến kiểm.
Thường
tọa bất ngọa, tri túc thanh liêm, phụng thượng khiêm hạ, cửu nhi di kính”.
/ Đại
Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện. Qu. Hạ. Trí Hoằng /.
- “Luật
sư Trí Hoằng, người Lạc Dương, chính là cháu của Đại sứ Vương Huyền Sách từng
đi sứ Tây vực! Mới trưởng thành thì
tánh tình đạm bạc, thanh tĩnh, không thích sự ràng buộc, tâm coi thường sự giàu
sang, ý muốn ẩn dật. Bởi vậy mà tới núi Thiếu Lâm ăn uống đạm bạc, vui với
việc đọc Kinh điển, viết văn rất hay. Khi đã nhận biết ra được sự ồn ào của chốn thành thị, thích cảnh tĩnh
lặng của chốn Đạo thì rời đất
Quan Trung đến các vùng Ngô Quận, Ngô Hưng, Đơn
Dương bỏ áo thế tục mà mặc pháp phục.
Tôn thiền sư Tha làm
thầy, tiếp nhận được trí huệ và tư tưởng của thầy. Và chưa được bao năm
thì chừng như đã thấu lẽ Đạo. Sau đó, lại đến chỗ thiền sư Nhẫn ở Cần
Châu tiếp tục tu tập Thiền định. Nhưng, thiện căn tuy đã gieo mà cành nhánh
chưa vươn cao nên lại qua sông Tương, vượt Hành Sơn, vào đất Quế
Lâm mà suy tư, ẩn mình ở chốn núi sâu để tĩnh tâm; ở nơi đây theo thiền sư Tịch
tu tập nhiều năm. Thấy cảnh núi sông đẹp
đẽ, dạo cảnh rừng thanh tĩnh mà [cảm hứng] làm bài phú “U Tuyền Sơn”,
trình bày hoài vọng viễn du của mình. Đã đến khắp các chỗ của các bậc nổi tiếng
đức độ ở vùng Tam Ngô, đã gặp hết các thiện tri thức vùng Cửu Giang, luận bàn
rốt ráo đạo lý vi diệu. Thế nhưng, [do] thiện
căn gieo trồng kiếp xưa cho nên chẳng cần có người khích lệ mà tự
mình rời Lạc Dương muốn đến phương Tây tìm hiểu sâu xa về Đạo. May gặp
được thiền sư Vô Hành cùng ý hướng [nên
cùng nhau] tới Hợp Phố lên
thuyền buôn, lênh đênh trong chuyến hành trình trên
biển xa thẳm. Gặp gió không thuận
lợi thuyền trôi dạt vào huyện Tỉ Ảnh. Thuyền
quay trở về Giao Châu, ở lại đây hết
mùa Hè. Khi đến cuối Đông lại trở ra cửa biển Thần Loan theo thuyền buôn đi
về Nam , tới nước Thất Lợi Phật Thệ. Những sự
việc khác mà bản thân (Trí
Hoằng) trải qua (trong chuyến hải trình này)
đều được tự thuật đầy đủ trong
phần Truyện của thiền sư Vô Hành.
Đến Chùa Đại Giác ở 2 năm, chiêm
ngưỡng dung mạo các bậc tài cao, đức trọng, dốc lòng thành khích lệ tâm chí, tụng
đọc Kinh tiếng Phạn. Ngày qua
tháng lại sau rồi cũng rành rẽ văn pháp của ngôn ngữ này, có thể đọc được Kinh
văn tiếng Phạn. [Từ đó] học Luật nghi, tập “Đối Pháp”. Đã thông hiểu “Câu
Xá Luận” ông lại giỏi cả khoa luận lý.
Ở Chùa Na Lạn Đà thì đọc
Kinh điển Đại Thừa, tại Đạo trường Tín Giả thì nghiên
cứu Giáo pháp Tiểu Thừa. Lại đến gặp những
bậc nổi tiếng đức độ học lại Luật nghi. Tâm ý thành khẩn học tập không lơ là một giây phút nào! Tập theo Bộ “Luật Kinh” của Luật sư Đức
Quang, vừa nghe giảng vừa dịch (ra tiếng
Hán), thực là chịu khó. (Như) cái phao khéo giữ gìn (cho thân
khỏi bị chìm), (đọc) không thiếu sót một luật nghi nhỏ nhặt nào!
Ông thường ngồi chứ không nằm, tánh biết đủ, trong sạch; với người
trên thì (hết lòng) hầu hạ, với kẻ dưới thì nhún nhường, ở chung lâu ngày người
càng kính trọng!
[Phụ chú.
[Phụ chú.
Luật sư. Trong Phật
giáo, người giải thích rốt ráo được giới luật của
Phật
được gọi là Luật sư.
Cũng như người giải thích được
vi ngôn diệu lý của Kinh điển Phật giáo thì được gọi là Luận sư. Luận
nghĩa là những lời chú giải Kinh.
Trong khi bên Nho gia thì gọi
những chú giải Kinh là “Truyện”.
Cửa Thần Loan. Nguyên
tác: “Hải tân Thần Loan”.
Có lẽ là cửa biển Thần Đầu.
Bộ “Cổ Đại Nam Hải Địa Danh Vị Thích”:
chép:
- “[Thần
Đầu hải khẩu]. Hựu tác Thần Đầu hải, Thần Đầu hải môn,
Thần Thụ hải khẩu, Thần Đầu hải khẩu, hoặc ngộ vi Linh Phù hải khẩu.
“An Nam
Khí Thủ”:
~ (Trương) Phụ
do Hoàng giang, A giang, Đại An hải khẩu, chí Phúc Thành giang chuyển nhập Thần
Đầu hải khẩu, giai quyết kỳ úng tắc nhi hậu hành. Thập dư nhật chí
Thanh Hóa”.
Tại kim Việt Nam Thanh Hóa
tỉnh, Nga Sơn huyện, Đông ngạn ngoại, vị cai tỉnh dữ Hà Nam Ninh tỉnh giao giới
ngoại”.
- “[Thần
Đầu hải khẩu]. Lại viết Thần Đầu hải, Thần Đầu hải môn, Thần Thụ hải
khẩu, Thần Đầu hải khẩu, hoặc có thuyết lầm là Linh Phù hải khẩu.
Sách “An Nam
Khí Thủ”:
~ (Trương) Phụ
[trong khoảng] từ Hoàng giang, A giang, Cửa biển Đại An cho đến chỗ sông Phúc Thành chuyển đổ vào Cửa
biển Thần Đầu, [trong khoảng này] những chỗ nào tắc nghẽn đều cho
khai thông sau đó mới tiến. (Như vậy) đi 10 ngày thì tới Thanh Hóa.
Hiện nay [Cửa
biển này] nằm ở mé ngoài Đông ngạn huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa nước Việt Nam, vị trí ở chỗ giao giới giữa tỉnh này và
tỉnh Hà Nam Ninh”.
Tụng đọc Kinh tiếng Phạn. Nguyên
tác: “phúng tụng”.
Phúng tụng có
nghĩa là “không xem nguyên văn mà chỉ đọc thuộc lòng theo trí nhớ”.
Ở đây ý nói Trí Hoằng chỉ tụng theo những gì mình từng tụng đọc thuộc lòng trong lúc tu
tập chứ không đọc được nguyên văn Phạn ngữ.
Phúng tụng cũng
gọi là “bối tụng”; “bối” nghĩa là “cái lưng”, “bối tụng”
là day lưng lại mà đọc chứ không nhìn vào sách.
Ngôn ngữ, văn tự Phạn ngữ. Nguyên
tác: Thanh Luận.
Ngôn ngữ, văn tự là 1 trong 5
môn học chính - được
gọi là “Ngũ Minh” - ở học đường Ấn Độ thời
cổ. Thanh Minh là môn đầu tiên trong 5 môn học này.
Tập “Đại Đường Tây Vực Ký”
viết:
~ Nhi khai mông dụ tiến, tiên
đạo Thập nhị chương, thất tuế chi hậu, tiệm thụ Ngũ minh Đại luận:
Nhất viết Thanh minh, thích cổ huấn
tự, thuyên mục lưu biệt.
Nhị Công xảo minh, kỹ thuật
cơ quan, Âm dương, Lịch số.
Tam Y phương minh, cấm chú
hàn tà, dược thạch châm ngải.
Tứ vị Nhân minh, khảo định
chính tà, nghiên hạch chân ngụy.
Ngũ viết Nội minh, cứu sướng ngũ
thừa, nhân quả diệu lý.
/ Đại Đường Tây Vực Ký. Qu. II. Ấn Độ tổng thuật. 9. Giáo dục /.
/ Đại Đường Tây Vực Ký. Qu. II. Ấn Độ tổng thuật. 9. Giáo dục /.
~ Việc hướng dẫn dạy dỗ trẻ mới
nhập học thì trước hết là dạy 12 Chương, cho tới lúc qua 7 tuổi
thì tuần tự dạy 5 Môn học chính:
Một là Thanh minh, là môn học về
ngôn ngữ, chủ đề là giải thích ngôn ngữ văn tự cổ cũng như sự phân chia trong ngôn ngữ, văn tự, và giải thuyết
về sự khác biệt trong sự phân chia này.
Hai là Công xảo minh, dạy kỹ
thuật về máy móc, dạy các khoa Thiên văn, Số học.
Ba là Y phương minh, dạy phòng
tà, chống tà, dược liệu, châm cứu, ngải cứu.
Bốn là Nhân minh, dạy khảo định
chính, tà, nghiên cứu kiểm tra thực, giả.
Năm là Nội minh, nghiên cứu
thông suốt về 5 Tông giáo, về diệu lý nhân quả.
Đối Pháp.
Tức A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakośāsastra) của Thế Thân
(Vasubandhu).
Tiếng “A Tỳ” dịch
ý là “Đối”, tiếng “Đạt Ma” ý dịch là “Pháp”,
và “Câu xá” là “Tạng”.
Hợp lại thành: “Đối Pháp
Tạng”, cũng gọi “Đại Pháp”, hoặc “Vô Tỷ Pháp”, gọi giản lược
là “Câu Xá Luận”.
(Còn 2 kỳ nữa)GS Minh Di
No comments:
Post a Comment