Nhà Thơ Thái Quốc Mưu
ĐỌC THƠ LÊN TRỜI & DU ĐIA PHỦ
CỦA THÁI QUỐC MƯU
Châu Thạch
Chẳng
biết nhà thơ Thái Quốc Mưu có phải là tiên là Phật hay không?.
Nếu không phải là tiên là Phật thì đích thì ông là anh chàng ngông thuộc hàng
bậc nhất thế gian. Bởi vì ông làm thơ lên trời nhiều lần mà xuống địa phủ cũng
lắm khi. Thường thường, những người ngông thì hay kiêu ngạo khiến cho trời
không dung đất không tha nhưng cái ngông trong thơ Thái Quốc Mưu lại làm cho người
vui mà trời cười thoải mái.
Đọc
cái ngông của Thái Quốc Mưu nhiều khi ta cũng thấy mình lâng lâng siêu thoát
như cùng ông viếng Ngọc Hoàng, thăm địa phủ.
Trước
hết hảy thưởng thức vài bài thơ tiêu biểu mà ông kể chuyện lên trời:
LÃO ĐIÊN CHẦU TRỜI
Ngọc Hoàng hạ chiếu bảo về chầu
Vội lái phi thuyền diện kiến tâu
Quan chức ngồi nghe ngàn mấy trự
Bệ tiền tấu rỗi mỗi thằng tao
Cái tình dân tộc còn đâu - Chán!
Hai chữ nghĩa nhân cũng hết - Sầu!
Thượng Đế nghe xong liền vỗ án...
Tây Vương Thánh Mẫu thét: “Đau đầu!”
Hai
câu mở của bài “Lão điên chầu trời” đã cho ta thấy hai cái ngông của nhà thơ.
Thứ nhất Thái Quốc Mưu tự nhận mình là quan chức nhà trời, vì chỉ có quan chức
nhà trời thì mới lìa thế bay lên khi nhận chiếu chỉ Ngọc Hoàng. Người trần mắt
thịt của chúng ta chỉ bỏ thế gian khi Satan mang lưởi hái tử thần đến điều đi
trong đau khổ. Cái ngông thứ hai là Thái Quốc Mưu tự cho mình là phi hành gia
số một trần gian, vì cho đến nay chỉ có người cởi phi thuyền bay đến cung trăng
chứ chưa hề có ai cởi phi thuyền mà lên đến tận trời, nơi thượng đế định cư.
Hai câu mở tưởng là Thái Quốc Mưu chỉ nói đến hai cái ngông để cười, nhưng thật
ra còn thêm một cái ngông ẩn trong hai câu thơ đó vừa cao siêu vừa thú vị. Đó
là Thái Quốc Mưu tự cho mình có hai thân vị trong một con người. Thân vị là
tiên khi ông nhận chiếu chỉ Ngọc Hoàng và thân vị là người khi ông cởi chiếc
phi thuyền bay lên. Tiên thì chỉ về trời bằng mây hay bằng cá chép chớ không
cởi phi thuyền mà đi được. Người thì chẳng bao giờ nhận được chiếu chỉ của Ngọc
Hoàng triệu hồi về lại thiên cung. Thái Quốc Mưu được về trời, lại vể trời bằng
phi thuyền của con người chế tạo, cho nên ông có hai thân vị của thánh thần và
của nhân gian. Vì mang hai thân vị đó nên qua hai câu thơ ở vế trạng, nhà thơ Thái
Quốc Mưu coi mình như bình đẳng với thánh thần nhà trời mà phát ngôn bằng những
từ của giới bình dân trần thế:
Bệ tiền tấu rỗi mỗi thằng tao
“Mấy
trự” là mấy đồng tiền lẽ. “Thằng tao” thì thằng là tự coi mình tầm thường,
“tao” là xưng hô với người ta không tôn trọng.
Quan
chức nhà trời ngồi trên ngàn vị nhưng được xem chỉ như là “mấy trự”, có nghĩa
là giá trị của họ chỉ bằng bạc cắt, bạc kênh thôi. “Tấu rỗi” có nghĩa thong thả
tâu, lai rai trình tấu. Hai câu trạng chứng tỏ tại sân nhà trời, Thái Quốc Mưu
và thánh thần không có ai trên ai dưới, phẩm cách như nhau. Chữ “tấu” ở đây chỉ
là cách nói lịch sự tôn trọng đám đông. Cách chơi chữ trong hai câu thơ nầy rất
hay vì tác giả tự nhún nhường hạ mình xuống làm “ thằng” sau khi xem thường gọi
đối phương nhà trời là ‘trự” và xưng “tao” với họ. Quan chức nhà trời ngồi nghe
ở đây không thể nổi nóng mà dễ dàng cười thông cảm vì Thái Quốc Mưu dùng cách
xưng hô như người Dân Tộc: ai cũng gọi bằng thằng và xưng lại là tau.
Qua
vế luận, lão điên không còn điên nữa mà lời phát ngôn nghiêm chỉnh như một hiền
nhân ưu tư về thế sự:
Cái tình dân tộc còn đâu – chán!
Hai chữ nghĩa nhân cũng hết –sầu!
Hai
chữ “chán” và “sầu” nhấn mạnh như kết luận tình hình trần thế mà lão điên trình
lên hội đồng thiên thượng cùng lời ta thán bày tỏ nỗi lòng lo âu vì thời cuộc
thế gian. Điều đó chứng tỏ sự tỉnh táo trong tâm thần người đứng trước bệ tiền.
Cái điên vừa qua chỉ là trò giả ngây ngô của một vì thần tiên pha cốt cách con
người đóng vai hài hước tạo nguồn vui. Lão điên bây giờ trở lại nguyên hình là
một sứ thần đầy uy tín. Do đó nhà trời tin ngay những lời ông nói mới “vỗ án”,
“đau đầu”.
Bài
thơ “Lão điên chầu trời” như một nụ cười diễu cợt nhà trời. Nụ cười đó mang đầy
tính chất ngông nghênh, hài hước đem đến giữa thiên triều một không khí tươi
vui nhưng cũng gián tiêp tỏ ra nhân phẩm của con người không thua chi thiên
thượng. Đọc bài thơ ta thấy cõi trời và cõi người hầu như rất gần nhau và cái
điên của lão điên là cầu nối thân thiện giữ con người cùng thượng đế.
Qua
một lần khác, Thái Quốc Mưu không chầu trời với tư cách sứ thần mà với tư cách
khách vãng lai:
VIẾNG TRỜI
Nhân tiện ngang qua ghé viếng Trời
Gặp ông Thái Thượng vểnh râu cười
Một đàn tiên nữ ra vồn vã
Mặt ngọc Hằng Nga tỏa sáng ngời
Phật Tổ giơ tay: “Chào Lão Đệ!”
Quan Âm cất tiếng: “Á, Ông Lười!”
Nước Trời trên dưới cùng tôn quý
Khác với nhân gian lắm ngợm người
Toàn
thể bài thơ trình bày một cuộc đón tiếp niềm nở của nhà trời với một người bạn
thân thương. Vị thần mà tác giả gặp đầu tiên là Thái Thượng Lão Quân. Thái
Thượng Lão Quân là tôn hiệu của một vị thần tiên trong Đạo giáo Trung Quốc.
Trong thần thoại Đạo giáo, Thái Thượng Lão Quân có trước cả trời đất, chính là
nguyên khí thời hỗn mang ngưng kết mà thành. Thái Thượng Lão Quân ở cung Đâu
Suất, tại tầng trời thứ 33. Trong cung Đâu Suất có lò Bát Quái là nơi luyện các
loại tiên đơn thánh thủy để trường sanh bất tử. Tiếp đó tác giả gặp Hằng Nga,
Phật Tổ, Quan Âm và tiên nữ vui mừng chào thưa vồn vã. Bài thơ cho ta thấy một
không khí nhu hòa, tươi vui, thân thiện chứng tỏ người đến thăm là người được
nhà trời yêu thương mến mộ. Trong bài thơ nầy tác giả chỉ bày tỏ một thân vị
thần thánh của ông qua lời lẽ trong thơ và qua cách đón tiếp của nhà trời. Lời
thơ trong “Viếng Trời” không chế riễu, không coi nhẹ người nước trời nữa mà
cuối bài ông còn ca tụng “Nước trời trên dưới cùng tôn quý”. Điều nầy dễ hiểu
vì bây giờ ông và họ cùng đẳng cấp như nhau, cùng mang chung thân vị thần tiên
nên không có sự tị hiềm ganh ghét. Trong bài thơ nầy tác giả thẳng thừng chê
bai hạ giới: “Khác với nhân gian lắm ngợm người”. Điều nầy không đáng trách, vì
khi tác giả đóng vai thần chánh hiệu thì phải nhận xét con người với tất cả
công tâm. Có như thế bài thơ mới thoát tục và mang hương vị ở chốn cao sang,
thánh thoát.
Thái Quốc Mưu là một nhà thơ nhưng chính thơ
ông sáng tác lại đóng vai diễn viên trên sân khấu. Khi điên thì cái điên cũng
mượt mà, thanh nhã và chơn chất mà khi nghiêm chỉnh thì đường bệ, thanh cao.
Dầu điên hay tỉnh Thái Quốc Mưu luôn có nụ cười hóm hỉnh, ý vị và hài hòa như
lan ra giữa cõi trời một niềm vui thú, làm cho cõi
trời trở nên một sân khấu cho khán giả trút đi ưu tư phiền muộn trong tiếng
cười. Rất nhiều thi sĩ đã về trời trong cơn say chếnh choáng. Rát nhiều thi sĩ
đã đứng trước bệ tiền miệt thị cõi bề trên. Thái Quốc Mưu thì không như thế.
Khi thì ông về trời trong thân vị nửa tục nửa tiên để hiểu thấu đáo niềm đau
của loài người và nỗi khổ của đấng chí cao. Khi thì ông về trời trong thân vị
một vị thần để thư giản cho chính mình và thư giản cho người thưởng thức thơ
ông. Dầu về trời trong cương vị thế nào, thơ Thái Quốc Mưu đều tiềm ẩn trong đó
một triết lý sống vui, nhẹ nhàng và thoải mái, làm cho người đọc sau nụ cười
thì chiêm nghiệm được phong cách sống ở đời cho đẹp thêm lên.
Châu Thạch
đã bàn về thơ lên trời của Thái Quốc Mưu, bây giờ ta hảy thử bàn tiếp thơ du
địa phủ của tiên sinh.
Cũng như lên trời, nhà thơ Thái Quốc Mưu du địa phủ
nhiều lần trong nhiều tư cách. Khi thì ông được mời, khi thì đi dạo chơi, nhưng
chưa lần nào ông bị gọi đi như đã từng nhận chiếu chỉ của Ngọc Hoàng. Điều đó
chứng tỏ vai vế của ông đối với nhà trời thì còn thấp đôi chút nhưng đối với
địa phủ thì chẳng đứng dưới ai kể cả Diêm Vương. Cũng khác với lên trời, tâm
trạng của Thái Quốc Mưu khi về địa phủ không được vui, vì ở đó ông thấy toàn
nghịch cảnh.
Bây giờ ta hãy
xem xét một vài bài thơ tiêu biểu trong những chuyện về âm phủ của Thái Quốc Mưu:
VIẾNG
CÕI ÂM
Xuống
dưới Diêm Vương dạo cảnh chơi.
Ô
hay, địa phủ khác xa đời!
Quần
thần mặt mũi như trâu ngựa
Binh
lính sai nha khác tính người
Quan
lại tham tiền nên tối mắt
Dân
đen có miệng phải câm lời
Dưới
trên một lũ y khuôn đổ.
Có
mắt nhưng mà chẳng có ngươi.
Đối với Thái Quốc Mưu, địa phủ hoàn toàn
tăm tối. Dương trần còn có chuyện vui nhưng địa phủ theo hai cầu mở bài là
“khác xa đời” và ở những câu thơ kế tiếp ông nêu ra toàn những hình ảnh xấu xa:
Quần thần thì “mặt mũi như trâu ngựa”, binh lính sai nha thì “khác tính người”,
quan lại thì “tham tiền nên tối mắt”.
Điều đau khổ nhất là cả cõi âm chỉ là một tập đoàn mù quán “Dưới trên một lũ y khuôn đúc/ Có mắt nhưng
mà chẳng có ngươi”. Sự kiện cõi âm là một tập đoàm mù quán trên dưới giống nhau
như khuôn đúc là một tệ nan chung, lớn lao và đau khổ. Nó như một chiếc khóa
khổng lồ cùm trói xã hội qua nhiều đời nhiều kiếp đã làm cho “ Dân đen có miệng
phải câm lời”.
Ở
một lần thăm viếng địa phủ khác, nhà thơ Thái Quốc Mưu lại khẳn định thêm một
lần nữa cõi âm ty là một chốn mà giới cầm quyền không có phẩm chất của người
cai trị:
CÕI
ÂM TY
Buồn
buồn xuống viếng cõi âm ty
Mắt
thấy tai nghe thật lạ kỳ
Viên
chức toàn là đồ bát nháo
Quan
quân cả thảy lũ vô nghì
Đầu
trâu, mặt ngựa luôn vênh váo
Miệng
hổ, lòng lang khó sánh bì
Lính
lác cũng đòi tiền mãi lộ
Diêm
vương thì đầu óc đen xì
Tất
nhiên lên trời hay xuống địa phủ cũng là những bài thơ phát sinh từ trí tưởng
tượng của nhà thơ Thái Quốc Mưu, nhưng chúng ta thử hỏi vì sao ông có thái độ
cởi mở khi lên trời mà lại có thái độ hằn học khi du địa phủ? Điều đó cũng có
thể lý giải được vì hai thái độ khác nhau đó phát sinh từ tâm lý của nhà thơ.
Đối với Thái Quốc Mưu, lên trời nằm trong ước vọng của ông về một điều tốt đẹp Ông muốn đồng hóa cõi trời và cõi thế. Ông
muốn con người cũng tốt đẹp như thần thánh và thần thánh cũng mang bản chất như
con người để gần gủi con người. Những điều tốt đẹp ông tưởng tượng có ở trên
trời thì ông ít thấy có ở trần gian mà có thể chỉ nằm trong ước mơ mà ông hư
cấu trong đầu óc của mình, còn nhưng điều xấu xa ông gán cho đja ngục là cái mà
ông đã thấy nhản tiền giữa thế gian, là cái mà ông đã và sẽ chung
đụng, là cái mà ông rất ghét và đã từng phẩn nộ vì nó. Vì vậy dễ hiểu khi ta thấy ông bỏ qua cái tốt
mà chỉ toàn công kích cái xấu ở cõi âm ty. Chỉ một lần trong bài thơ “Địa phủ
Du” nhà thơ công nhận âm ty cũng còn điều tốt đẹp: “ Âm ty chẳng khác gì nhân
thế/ Cũng lắm hoa thơm lắm bọ giòi”. Có lẽ vì lúc đó tác giả có niềm vui gì đó
nên cái nhìn của ông về cõi dưới cũng vui lây.
Một lần nhà thơ được Diêm Vương mời xuống đánh
cờ. Đánh cờ là thú chơi tao nhã của tiên ông, nó không phù hợp ở chốn kêu la và
khóc lóc, vì vậy nhà thơ tỏ ra không hứng thú :
NÓI
VỚI DIÊM CHÚA
Cái
lão Diêm Vương cắc cớ thôi
Nhè
ta mời xuống đánh cờ chơi
Làm
như cạn ráo lòng yêu gái
Chẳng
biết dư thừa sức tắm hơi
Ào
ạt y chang xe xuống núi
Lom
khom na ná ngựa leo đồi
Không
như tướng, sĩ xua dàn pháo
Chưa
bước sang sông đã tịt ngòi.
Atlanta,
Nov. 29. 2011
Thái
Quốc Mưu
Đem
cái thú chơi tiên mà so sánh với thú chơi dục tính của trần gian là một ẩn ý
sâu sắc của bài thơ. Ta nhìn thấy ở đây Diêm vương lúng túng như một chú hề
trong cái cử chỉ học đòi thanh tao đó . “ Y chang xe xuống núi/ na ná ngựa leo
đồi” và cuối cùng thì “ Chưa bước sang sông đã tịt ngòi” là tiếng cười chế diễu Diêm Vương, hay đúng
ra, nhà thơ chế diễu hạng người quyền cao chức trọng, ăn chơi trác táng mà còn
lòe thiên hạ sau tấm bình phong tốt đẹp.
Đọc thơ về du hành ra khỏi trần gian của Thái
Quốc Mưu ta thấy nhà thơ lên trời thì ít mà về địa phủ thì nhiều lần. Vì sao?
Rỏ ràng vì ông canh cánh bên lòng những tệ đoan giữa cuộc đời, những bất công,
những đau buồn trên trần thế. Nỗi lòng ông nặng bởi đời sống con người, bởi
hạnh phúc nhân quần xã hội, cho nên sự phản đối sự xấu xa âm ỉ trong tâm tư
ông, khiến ông thường đi về địa phủ như
đến thăm viếng an ủi lớp người bần cùng thì nhiều mà đi đến thiên đàng nơi có
nhiều vinh quang thì ít.
Đọc thơ về du hành địa phủ của Thái Quốc Mưu
ta thấy ở đó tóm gọn những bản cáo trạng tố cáo mảnh liệt những điều xấu xa,
nhất là những điều xấu xa ở giai cấp quan lại từ cao xuống thấp. Thật ra những
điều Thái Quốc Mưu viết không chắc có ở địa phủ nhưng chính nó thật sự xảy ra ở
trần gian. Thái Quốc Mưu dùng địa phủ để chỉ trích trần gian, chỉ trích những
tệ nạn hoặc ít hoặc nhiều, hoặc nhẹ hoặc trầm trọng còn tùy vào cái nhìn ở mỗi
góc cạnh khác nhau nhưng nó đã thật sự xảy ra trên toàn thế gian nầy không trừ
một nơi đâu. Góp thêm với tiếng kêu của nhưng người có tâm huyết, Thái Quố Mưu
dóng lên nhiều tiếng trống tố cáo quyền lực của sự tối tăm đã làm cho trần gian
vốn chẳng thua gì tiên giới bao nhiêu lại trở thành địa phủ, nơi lòng người
“đen xì” và mặt người biến ra “trâu ngựa”
3/4/2014
Châu Thạch
No comments:
Post a Comment