Tháng Bảy, hội nghị cấp
cứu nhi đồng Honolulu ,
vào dịp nghỉ hè hàng năm của tôi, khi trường học mãn khoá. Chúng
tôi đến đó đêm trước ngày 1 tháng 7 đến hết ngày 4 tháng 7, 2013.
Ngày trước là Quốc Khánh Canada, ngày sau Quốc Khánh Hoa Kỳ, lễ Độc Lập.
Trên chuyến bay sáu giờ từ Vancouver , tôi không
nghĩ đến các đề tài thụ huấn mà chỉ tơ tưởng bãi cát trắng mịn màng, kiều nữ Hạ
Uy Di quyến rũ và Pearl Harbor . Kể từ năm mười
lăm tuổi, ngồi nghe thầy Nguyễn Bảo giảng rất hay về trận Trân Châu Cảng,
chương trình sử Đệ Tứ, Nguyễn Hoàng, trong tôi ấn tượng chưa bao giờ phai mờ.
Hạ Uy Di là tiểu
bang 50, gia nhập liên bang sau cùng, 1959, nhưng trước đó nhiều năm
có căn cứ quân sự Mỹ trong mối quan hệ đồng minh thân
cận. Thái Bình Dương những ngày này, 2013, đang phảng phất mùi thuốc súng ở
phía Tây, vùng biển Việt Nam và Philippines, nhưng vẫn yên tĩnh phía
Đông, Hạ Uy Di, như vẫn thế bảy mươi năm nay. Nước Mỹ đi qua nội chiến,
thế chiến I, thế chiến II, chiến tranh bảo vệ Nam Triều Tiên, chiến tranh Việt
Nam, chiến tranh vùng vịnh, Iraq và Afghanistan. Chúng tôi được chở từ bãi biển
Waikiki đến bến tàu, nơi có những tòa nhà thấp
rộng, có quán cà phê, nơi bán tranh tượng, lưu niệm, trong sương mai chờ
phà qua vịnh. Mặt trời lên sớm trên mặt biển xanh biếc. Trân Châu Cảng như bông
hoa ba cánh, với ba vịnh nhỏ và dài chạy xòe ra, ở giữa là đảo trung tâm, nơi
đóng căn cứ hải quân Hoa Kỳ.
Mờ sáng ngày 7 tháng 12,
1941, người Nhật đánh úp. Sáng chủ nhật là lúc thanh bình,
nhiều người đang ngủ, ăn điểm tâm. Trên tàu Arizona , hầu hết đều chưa lên boong vì đêm
trước họ có cuộc hòa nhạc và sau đó là tiệc nhẹ, hoa hồng và khăn bàn trắng còn
vương vãi. Nước Mỹ chưa tham chiến, Nhật đang thương lượng với họ để tiếp tục
mua dầu hỏa, nhưng các giàn xếp không thành vì tổng thống Franklin Roosevelt
muốn cắt đứt tiếp tế để giảm làn sóng xâm lược của Nhật. Thay vì bó tay trước
lời cự tuyệt, người Nhật quyết định đánh phủ đầu. Đối với họ, hải cảng mang tên
hòn ngọc là chướng ngại cản đường đạo quân mang kiếm dài đang tung hoành khắp
nơi. Yếu tố bất ngờ là quyết định. Người Mỹ gọi là daring gamble.
Từ ngày 26 tháng 11,
1941, lực lượng của phó đô đốc Chuichi Nagumo bí mật rời Nhật
bắt đầu cuộc hành trình ba ngàn dặm, mang theo sáu hàng không mẫu hạm, hai
chiến hạm, ba tuần dương hạm, ba tàu ngầm, chín khu trục hạm, băng đại dương,
tránh né các thủy đạo chính, sau mười ngày đến phía bắc đảo O’ahu; thủ đô của
nó là Honolulu. Sáu giờ sáng, tấn công đợt thứ nhất với 183 phi cơ, hơn một giờ
sau, 167 phi cơ ùa ra trong làn sóng tấn công thứ hai. Sau vài giờ, 21 tàu
chiến của Mỹ trên cảng bị đánh đắm, 188 phi cơ bị tiêu diệt. Mục tiêu số một
của Nhật là các hàng không mẫu hạm, nhưng lúc ấy chúng đã ra khơi, không có
mặt, mục tiêu thứ hai là các chiến hạm. Chiến hạm Arizona thiệt hại nặng nhất, bị đánh chìm
ngay từ vài phút đầu, mang theo 1,100 thủy thủ, dầu và máu loang mặt biển, xác
chiếc tàu này trở thành ngôi mộ chung của họ. Phía trên thân tàu xây lên một
công trình tưởng niệm bằng kim loại và đá, nơi tôi đứng trong buổi sáng ngày Lễ
Độc Lập Hoa Kỳ có vị mặn gió biển. Dưới chân chúng tôi, đã nằm xuống 2,400
chiến binh anh dũng của Mỹ, tên tuổi họ khắc lên bức tường đá trắng cuối nhà
tưởng niệm. Người Nhật đã tính toán chính xác về quân sự, nhưng không tính được
lòng dân: tình ái quốc của họ bị kích thích, các trạm tuyển mộ tân binh khắp
nước Mỹ tràn ngập thanh niên sẵn sàng từ bỏ cuộc sống an bình, tôi đã thấy một
bức ảnh chụp xếp hàng ghi danh dài cả trăm người, ai cũng ôm theo chăn màn của
họ, đi bên cạnh là các phụ nữ. Từ trận tấn công với tổn thất kinh hoàng, những
chàng trai ấy đã đi con đường rất xa, lật ngược thế cờ, lực lượng hải quân và
không quân của họ tổ chức lại được gửi ra khơi, dành quyền chủ động trên các
mặt biển.
Trong tiệm sách trên bến phà,
tôi lật một tờ báo của cựu chiến binh Mỹ, và nhận ra ngoài Lễ Độc Lập, tháng
Bảy họ cũng nhắc về trận đánh Khe Sanh, như một tấm gương hy sinh. Đó là cuộc
đụng độ lớn giữa quân đội Hoa kỳ và Quân đội Nhân dân Việt Nam, với sự tham dự
của một số đơn vị quân lực Việt Nam Cộng hòa như Biệt động quân, Nhảy dù, Thủy
quân lục chiến, và các bên đều chịu những tổn thất rất nặng nề, đến nay vẫn còn
gây tranh cãi. Khe Sanh thuộc huyện Hướng Hóa, Quảng Trị của tôi, vùng đất
nghèo nhất nước, đánh nhau ác liệt nhất nước. Thật ra, tài liệu chính thức của
Mỹ ghi nhận ngày Phục Sinh 14 tháng 4 năm 1968 là ngày cuối của trận đánh kéo
dài 77 ngày. Tuy vậy, phía Quân đội Nhân dân đến nay vẫn cho ngày 15 tháng 7
năm 1968 mới thực sự kết thúc. Một người bạn của tôi đang đi du lịch ở Hướng Hóa
lại kể rằng bên ấy cũng đang làm lễ kỷ niệm.
Nhưng ai đã thắng trận Khe
Sanh?
Dù sao, đã là
quá khứ, và các nhà viết quân sử tương lai, ít có dính
líu trực tiếp hơn chúng ta, sẽ có khả năng soi sáng nhiều kía
cạnh khác của sự thật. Đối với tôi, điều quan trọng hơn là tất cả những người
lính tham gia trận đánh, từ hai phía, ba phía, Hoa Kỳ, Bắc quân, Nam quân, dù
chiến đấu với lý tưởng nào, dù việc họ làm đúng hay sai đến đâu, có lợi hay hại
gì cho các dân tộc về lâu dài, tất cả đã thực sự chiến đấu dũng cảm, hy sinh
lớn lao, họ đã đổ xương máu, đã khóc trên xác chết đồng đội trong tay, họ đã
hóa thành những vành khăn tang trắng trên đầu phụ nữ và trẻ em trong Nam, ngoài
Bắc, bên kia biển Thái Bình. Tôi muốn có dịp đứng nghiêng mình trước họ, như đã
nghiêng mình sáng nay trước chiến hạm Arizona .
Sự đả kích từ các
bên tham chiến ở Việt Nam
đến nay tuy có giảm bớt nhưng vẫn còn gay gắt và chắc sẽ lâu
dài. Tôi chưa thấy bài thơ nào diễn đạt trọn vẹn điều ấy
hơn bài thơ của Thomas Lux, khuôn mặt quan trọng của thơ đương đại Hoa Kỳ.
Dân Làng Khác
Ghét dân làng này
Dùng đinh đóng
mũ vào đầu
Chúng tôi vì không chịu
bỏ mũ ra chào
Ghim chặt tay chúng tôi lên
trán
Vì không chịu đưa
tay lên
Nếu chúng tôi không đánh: gửi
cho họ thùng đầy chuột bọ
Trộn bột bánh mì vào
gương vỡ li ti
Chúng tôi làm thế này,
bọn họ làm thế khác
Cắt họng anh em tôi
Chúng tôi xin chị em
họ tí huyết
Họ đào hố cát lầy
rất tuyệt
Nhưng đội giảo hình chúng tôi
mới bậc thầy
Chúng tôi dạy chim ăn cắp lúa
mì
Họ gửi đi sứ giả hòa
bình giấu bom trong bụng
Bọn họ làm thế
này, chúng tôi làm thế khác
Chúng tôi hủy bỏ nhập
các bầy cừu
Họ ngừng mua chăn len
của chúng tôi
Chúng tôi nhạo báng các
nhà thơ của họ
Và khi trò này
tỏ ra vô hại
Chúng tôi liền giễu nhại
nghệ thuật nhảy đầm
Lần này họ tức điên
lên, liền bảo Thượng Đế
Của chúng tôi hói đầu,
lác hủi
Chúng tôi làm thế này,
bọn họ làm thế khác
Mười ngàn (10,000) năm độc
ác đi qua, mười ngàn
(10,000) năm tươi đẹp.
The People Of The Other
Village
Hate the people of this
village
And would nail our hats
To our heads for refusing in
their presence to remove them
Or staple our hands to our
foreheads
For refusing to salute them
If we did not hurt them
first: mail them packages of rats,
Mix their flour at night with
broken glass.
We do this, they do that.
They peel the larynx from one
of our brothers’ throats.
We devein one of their
sisters.
The quicksand pits they built
were good.
Our amputation teams were
better.
We trained some birds to
steal their wheat
They sent to us exploding
ambassadors of peace
They do this, we do that.
We canceled our sheep
imports.
They no longer bought our
blankets
We mocked their greatest poet
And when that had no effect
We parodied the way they
dance
Which did cause pain, so
they, in turn, said our God
Was leprous, hairless
We do this, they do that
Ten thousand (10,000) years,
ten thousand
(10,000) brutal, beautiful
years.
(Thomas Lux, New and Selected
Poems 1975- 1995, Hartcourt, 1997)
Các công trình kiến trúc
tưởng niệm có tính sáng tạo, không bắt chước nhau, có hiệu ứng dẫn đường
cho du khách về thăm các sự kiện, nhìn lại nguyên nhân của các tổn thương và
giúp họ nghĩ về hiện tại. Công trình trên cảng Trân Châu có tính chất ấy.
Thật ra, sau chiến tranh,
kẻ thắng trận bao giờ cũng có nhiều quyền hơn để
hạ nhục người khác, trên lời nói hay sách vở. Nhưng người Mỹ đã không
sử dụng quyền ấy. Tôi tìm thấy một phần câu trả lời cho câu hỏi
vì- sao- họ- làm- được- như- vậy trong một cuốn sách của nhà văn gốc Canada
Michelle Orange mua trên bến cảng, trích câu của nhà sử học Hoa kỳ Richard
Hofstadter:
It has been our fate as a nation not to have ideologies but
to be one. Đất nước chúng ta vốn không có các hệ tư tưởng, chính chúng ta
là một hệ tư tưởng.
Khi mọi người trong đoàn thăm
viếng đã đi hết, tôi quay lại lần nữa, đứng trước bức tường đá trắng
khắc tên các chiến binh tử trận. Phía trước bức tường là vòng hoa khá lớn,
lá và hoa hình dạng như nhau, hoa đỏ sẫm, trông đơn giản mà lại ý tứ, trang
nhã, và đó là vòng hoa duy nhất.
Tôi cúi xuống đọc hàng
chữ: đương kim Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera,
gửi đến vào dịp lễ Độc lập của Hoa kỳ năm nay.
(Trích Nhật Ký)
Nguyễn Đức Tùng
bachnguyen@shaw.ca
No comments:
Post a Comment