Tài Liệu Tham Khảo
Wikipedia – Ái Hoa
Dương Quảng Hàm – Văn Học Việt Nam
Quách Tấn – Thi Pháp Thơ Đường
NHỮNG LỖI - BỆNH TRONG KHI LÀM THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Bệnh của Đường thi
(Thể thất ngôn)
1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận
Lỗi của Đường thi
1. Lạc vận
2. Lạc đề
3. Thất niêm, thất luật
4. Thất đối
5. Khổ độc
6. Điệp thanh
7. Điệp điệu
8. Điệp âm
9. Trùng vận
10. Trùng từ/ Điệp từ
11. Trùng ý / Hiệp Chưởng
12. Phạm đề/ Mạ đề
******************************************************
1. Thất luật
Để biết một bài thơ có thất luật hay không thì nhìn vào các chữ thứ 2, 4, 6.
Trong mỗi cặp câu thì các chữ thứ 2, 4, 6 của câu trên phải khác nhóm thanh (bằng hay trắc) với chữ thứ 2, 4, 6 của câu dưới.
Trong cùng một câu thì chữ thứ 2 phải khác nhóm thanh với chữ thứ 4 và cùng nhóm thanh với chữ thứ 6. Ví dụ bài thơ thất luật:
TỰ TRÀO
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không
Bởi ông hay quá ông không đổ
Không đổ ông càng tốt bộ ngông
Tản Đà
ĐÈO BA DỘI
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
Hồ Xuân Hương
2. Thất niêm
Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2:
- Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3
- Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5
- Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7
- Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1
Ví dụ bài thơ thất niêm:
DĨ HOÀ VI QUÝ
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn
Ðây rằng đây phải, đấy không thua
Duật nọ hãy còn đua với bạng
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng: Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo
Nguyễn Bỉnh Khiêm
HÀ TIỆN
Giàu thì ba bữa khó thì hai
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai
Dặn vợ có cà đừng gắp mắm
Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai
Thế gian mặc kẻ cười hà tiện
Ta chẳng phiền ai chẳng luỵ ai
Nguyễn Minh Triết
3. Lạc vận/Cưỡng vận
Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận. Nếu không dùng vần chính thì nên lựa vần thông càng gần nhau càng tốt.
Ví dụ bài thơ lạc vận:
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chum trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng đã vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
Nguyễn Khuyến
THU THỜI LOẠN
Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Đòi chốn lầm than chyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Muốn đến Vỵ Xuyên tìm hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ư
Khuyết danh
Thơ cưỡng vận:
KHÔNG CHỒNG MÀ CHỮA
Cả nể cho nên hoá dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,(1)
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.(2)
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?(3)
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.(4)
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Những kẻ không mà có mới ngoan (5)
Hồ Xuân Hương
(1)-(2) ở đây, dùng lối chơi chữ Hán. Chữ Thiên là trời nhô đầu lên thì thành chữ Phu là chồng; chữ Liễu là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ Tử là con. Hai câu này ý nói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng?
(3)-(4) Tình và nghĩa gắn liền đặc tính truyền thống của Hồ Xuân Hương nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó thường vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ.
(5) Tác giả đứng về phía người con gái mà dùng ý một câu ca dao: “Không chồng mà chửa mới ngoan; Có chồng mà chửa thế gian sự thường”
ĐÊM BUỒN
Trời không chớp bể với mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông
Trần Tế Xương
4. Thất đối
Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ Đường luật. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ Đường luật nữa. Ví dụ bài thơ thất đối:
NGHE HÁT
Phách ngọt đàn say nệm gối êm
Tiếng ca buồn nổi giữa trời đêm
Canh khuya đưa khách lời reo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Ai lạ nghìn thu xa tám cõi
Sao vàng như động phía châu liêm
Nao nao khói biếc hài thương nữ
Trở gối hoa lê rụng trắng thềm
Vũ Hoàng Chương
NGHẸN BƯỚC
Nắng rụng gầy sương đường lỡ thì
Thương người khăn gói nghẹn chân đi
Quán nghiêng nửa mái chờ giông tố
Ngõ hẹp mây đùn sập nét mi
Quỷ dựng đàng sau muôn lớp ải
Lòng nghe nai gặm cỏ biên thuỳ
Xoa tay nhớ lại mùa xuân trước
Phấn bướm còn vương nhịp trúc ty
Vũ Hân
5. Khổ độc
Lỗi khổ độc rất phổ biến trong các người làm thơ Đường luật mà không rành luật thơ, ngay cả đối với một số nhà thơ nổi tiếng cũng có khi mắc phải. Ví dụ:
HÁT BỘI
Đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi
Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Kẻ nịnh râu hoe mấy sợi còi
Trên trính có nhà còn lợp lọng
Dưới chân không ngựa lại giơ roi
Hèn chi chúng nói bội là bạc
Bôi mặt đánh nhau, cú lại thoi
Phan Văn Trị
6. Trùng vận
Thơ Đường luật chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng.
Tuy nhiên nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau, không phạm lỗi. Tuy nhiên không nên để hai vần đồng âm gần nhau để tránh nghe đọc không hay. Ví dụ:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Bà Huyện Thanh Quan
Chữ “trường” câu 1 với chữ “trường” câu 8 có nghĩa khác nhau nên không phạm lỗi trùng vận .
Cũng vậy trong bài sau, hai chữ cờ có nghĩa khác nhau:
CẢM TÁC
Mấy chục năm qua gió bụi mờ
Tưởng rày bớt đục hoá thêm nhơ
Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ (1)
Tay sẵn ngon tay gió phất cờ (2)
Ruột đứt non sông trời Bến Hải
Sầu vương cây cỏ đất Cần Thơ
Đêm đêm dưới nguyệt gươm mài hận (3)
Ai nữa chung tay lật thế cờ
T. X.
(1) Gà nhà bôi mặt đá nhau
(2) Theo gió phất cờ
(3) thơ Đặng Dung: Kỷ độ Long tuyền đái nguyệt ma (dưới trăng bao bận tuốt gươm mài)
Nhưng nếu để hai vần đồng âm gần nhau sẽ nghe rất dở!
Ví dụ:
Tám phương bước lạc đến công trường
Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường
Khuyết danh
7. Trùng từ
Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ.
Ví dụ bài thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan (Thăng Long Thành hoài cổ) bị trùng từ ở hai chữ “cũ”. Dùng lại chữ một lần thì tạm chấp nhận, dùng lại hai, ba lần thì bài thơ bị đánh giá là kém cỏi.
Trong trường hợp sử dụng mỹ từ pháp điệp ngữ thì không tính là lỗi.
Ví dụ:
DẠI KHÔN
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại biết ai khôn ?
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn
Mấy kẻ nên khôn đều có dại
Những người có dại mới nên khôn
Cái khôn ai cũng khôn là thế
Mới biết trần gian kẻ dại khôn
Trần Tế Xương
GHẸO CÔ BÁN CAU
Hỏi cau ai bán tiếng nghe rao
Tốt vóc mà trong biết thế nào
Giấu để trong buồng e đóng đục
Bày ra trước mắt thấy ngon dao
Muốn mua nên phải coi từ vú
Có bán xin cho thử chút mào
Chuốt ngót của mình ai dám chắc
Biết lòng biết mặt xỉa tiền trao
Đỗ Thanh Tân
HỎI THĂM ÔNG ẤM
Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà
Trước nhà có miếu có cây đa
Vườn ao đất cát chừng ba thước
Nửa lá tre pheo đủ mọi toà
Mới sáu bận sanh đà sáu cậu
Trong hai dinh ở đủ hai bà
Lưng ông mốc thếch như trăn gió
Ông được phong lưu tại nước da
Trần Tế Xương
Cũng là trùng từ khi hai chữ đọc khác nhau nhưng cùng một nghĩa, Ví dụ:
TẶNG BIỆT
Dù bắc dù nam cũng một trời
Ba sinh tan hợp cái trò chơi
Cười ta tri kỷ bên mình ít
Mừng bạn cao đường dưới gối vui
Trăng nước Cù Giang duyên mãi thắm
Cỏ hoa Hồng Lĩnh bút thêm tươi
Những đêm êm ấm lòng rung động
Là biết nơi đây tớ nhớ người
T.X.
Ta và tớ đều nói cùng một nghĩa, phạm lỗi trùng từ nên giá trị bài thơ cũng giảm sút nhiều.
8. Trùng ý
Trong bài thơ Đường luật nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại).
Ví dụ:
THÁCH HOẠ
Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ
Càng nhìn càng nghĩ lại càng dơ
Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm
Gõ vỡ trần gian tiếng mõ trưa
Chu tử ngán mùi nên vải ấm
Đỉnh chung lợm giọng hoá chay ưa
Lên đàn cứu khổ toan quay lại
Bể ái trông ra nước đục lờ
Công chúa em vua Minh Mạng
VỊNH PHÁO TRE
Đông tàn xuân đã đến đây be
Bốn phía rền vang những pháo tre
Mắng tiếng giật mình loài quỷ xó
Nghe hơi mất vía lũ ma hè
Trêu người trướng gấm kinh hồn điệp
Ghẹo kẻ màn loan tỉnh giấc hoè
Trừ cựu mượn chàng kêu một tiếng
Mừng xuân muôn cửa chán tai nghe
Hương Kiểu
Nếu hai cặp thực và luận trùng ý nhau thì gọi là sàng túc (hai chiếc giường chồng lên nhau) hay là điệp sàng xá ốc (giường nhiều lớp, nhà gác chồng).
9. Phạm đề / Mạ đề
Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề. Ví dụ:
THEO VOI ĂN BÃ MÍA
Ăn mía theo voi tiếng đến giờ
Vì chi miếng bã để trò dơ
Rón chân những chực khi vòi nhả
Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa
Ấy đã theo đuôi thời phải hít
Còn đâu nên tấm nữa mà vơ
Nghìn năm bia miệng là câu thế
Những khách ăn tàn đã biết chưa
Tản Đà
Bài này bị phạm đề ở chữ "theo" trong câu 5.
10. Điệp điệu
Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ.
Ví dụ:
GIỮ MỰC THANH LIÊM
Chớ nghĩ là quan đã bảnh bao
Yêu nhau một giống nghĩa đồng bào
Bới lông tìm vết / lòng không nỡ
Giục bị xui nguyên / tội xiết bao
Dấu đỏ loè dân / trò lính lệ
Môi thâm hót nhảm / lối cường hào
Kiếm xu không phải mình không thạo
Bắt nạt dân đen có lẽ nào
Đặng Xuân Bảng
HẰNG NGA
Hỡi chị Hằng Nga náu Quảng Hàn
Bốn mùa trăng gió với giang san
Áo tiên / tuy nhuộm / mùi Vương Mẫu
Hương tục / còn nồng / lửa Hậu Lang
Mắt phượng / đã say / miền ngọc thỏ
Cung nghê / nỡ phụ / khúc cầm loan
Nếu không duyên nợ cùng người thế
Xin chớ gieo mình nước hợp loan
Hồ Xuân Hương
11. Bình đầu
Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt.
Ví dụ:
ĐĨ GIÀ ĐI TU
Lầu xanh thánh thót tiếng chuông chiền
Tỉnh giấc Cao đường lúc ngửa nghiêng
Mượn chiếc thuyền tình qua bể ái
Đưa con sóng sắc tới rừng thiền
Trông gương trí tuệ đau lòng tục
Lần chuỗi bồ đề kết trái duyên
Mát mẻ cửa Không trăng gió sẵn
Dầu chưa nên Phật cũng nên tiên
Huỳnh Mẫn Đạt
ĐÓN TẾT
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành tết khác
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Trần Tế Xương
12. Thượng vỹ
Trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tiếp (nhiều hơn 3) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ.
Ví dụ:
KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI
Cho hay thiên hạ khéo xem gương
Hễ khó thời thôi mấy kẻ màng
Miệng nói đã đành mua chuyện ghét
Tay không chưa dễ ép người thương
Khéo khôn ai cũng tranh phần được
Trong sạch ta thời giữ mực thường
Ði lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc, chớ lo lường
Nguyễn Công Trứ
THAN NGHÈO
Chẳng lợi danh gì lại hóa hay
Chẳng gì phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trời trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này
Nguyễn Công Trứ
13. Điệp thanh
Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. Ví dụ câu thơ có 4 tiếng bằng thì chỉ nên dùng 2 chữ có dấu huyền (trầm bình thanh), dùng 3 hoặc cả 4 chữ có dấu huyền làm câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Ngược lại nếu dùng nhiều tiếng không dấu (phù bình thanh) sẽ làm câu thơ nghe ngang ngang không êm dịu.
Ví dụ:
CUNG OÁN
Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết than này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà
Ôn Như Hầu
THAN NGHÈO
Chẳng chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu bấy lâu nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hoá phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này
Nguyễn Công Trứ
14. Điệp âm
Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu.
Ví dụ:
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ
Chồn toan mượn lốt để hù nai
Giàn treo trã cá vung không đậy
Bếp tạt mưa đêm nước nhỏ đầy
Chim oanh đường cũ đương bay nhảy
Chồi quế sân trong muốn thập thò
Khuyết danh
Hai tiếng cùng âm đứng kế liền nhau, các từ đôi lắp láy thì không kể là lỗi.
Ví dụ:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nguyễn Khuyến
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
Bà Huyện Thanh Quan
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Chỉ vì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Hồ Xuân Hương
15. Đại vận
Bài thơ Đường luật chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận
Ví dụ:
Bâng khuâng ngày xế cả than trời
Ai đố cho người gánh nạn đời
Làng đế đành theo ông hữu đạo
Cõi phàm hỗ ngó lũ vô quân …
Nguyễn Đình Chiểu
Siếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Hồ Xuân Hương
Nước non nào phải của ai đâu
Nhiều ít công hầu cũng mặc dầu
Nguyễn Bỉnh Khiêm
16. Tiểu vận
Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận.
Ví dụ:
Chưa mở trí khôn đừng dở dại
Muốn xong việc nước phải êm nhà
Nguyễn Đình Ngọc
Chín bệ dâng lời dù khép nép
Bốn phương trông ngóng cũng nương nhờ
Phan Huy Ích
Ví dụ cả đại vận và tiểu vận:
THI HỎNG
Mai này tớ hỏng tớ đi ngay
Cúng giỗ từ nay nhớ lấy ngày
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ăn ớt thế mà cay
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ
Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày
“Cống hỉ” “mét xì” đây thuộc cả
Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây
Trần Tế Xương
17. Phong yêu
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu.
Ví dụ:
Để bụng phải đeo điều nhẹ nặng
Ôm tai mặc quách tiếng chê khen
Trần Tế Xương
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Giong lèo thây kẻ ráp xui ghềnh
Hồ Xuân Hương
18. Hạc tất
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất.
Ví dụ:
Nghe lời phi pháp tai làm điếc
Nghĩ nỗi nhân tình ruột lại đầy
Khuyết danh
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
Cật ngựa thanh gươm ven chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Tôn Thọ Tường
Bài này câu 2 phạm phong yêu, câu 3 phạm hạc tất.
CẢM HOÀI
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ khí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân hé mắt hẹn ngày về
Phen này miễn được hoà hai nuớc
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi
Phan Thanh Giản
Bài này câu 1, 4 phạm hạc tất, câu 5 phạm phong yêu.
19. Chánh nữu
Trong một câu có nhiều hơn hai chữ có cùng phụ âm đầu (hoặc bắt đầu bằng nguyên âm, không có phụ âm đầu) thì phạm lỗi chánh nữu. Ví dụ:
Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao long lánh bóng trăng loe
Nguyễn Khuyến
20. Bàng nữu
Nếu các chữ có cùng phụ âm đầu hoặc bắt đầu bằng nguyên âm nằm gần nhau trên hai câu liên tiếp thì phạm lỗi bàng nữu.
Ví dụ:
ĐÓN TẾT
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành tết khác
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Trần Tế Xương
Câu 1, 8 và câu 7 phạm lỗi chánh nữu, câu 1-2 phạm lỗi bàng nữu.
Ví dụ:
Viếng thành Huế sau ngày đình chiến
Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang
Trông vời Thiên Mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng
T.X.
(SƯU TẦM)
8 comments:
Bạn Đọc viết:
Những Bệnh và Lỗi này (trong thơ luật Đường)nếu là người yêu thích TLĐ và không ngại tìm trên mạng thì có thể đọc được ngay vì nhiều nơi đã đăng rồi. Tuy nhiên VN Quảng Trị giới thiệu lại cũng rất hữu ích vì còn nhiều "thi sĩ làng Đường" chưa biết.
Vậy nhưng Bạn Đọc có suy nghĩ như thế này:
BIẾT là CẦN và là ĐIỀU TỐT nhưng đừng CỐ theo cho THẬT ĐÚNG và dựa vào bảng này để SĂM SOI lẫn nhau, vì như vậy thì không còn là LÀM THƠ nữa mà trở thành việc ĐẼO THƠ, tự biến mình thành một tay thợ thủ công mà thôi.
Làm bất cứ loại thơ gì cũng nên TRỌNG TỨ HƠN TRỌNG TỪ. Vì chỉ khi có TỨ THƠ HAY thì mới thành được bài thơ. Đôi khi vì TỨ THƠ mà người xưa chấp nhận xuê xoa trong việc CHỌN TỪ, nhưng những bài thơ như vậy lại được truyền tụng đến ngày nay. Trong khi những bài thật chuẩn mực hầu như chẳng có bài nào hay đến mức dược lưu truyền (ngay cả thơ Đường chính hiệu), không kể đến việc một số người mất khá nhiều thời gian và công sức để ĐẼO ra một bài thơ thể HỒI VĂN CÁCH- đọc xuôi ngược đều có nghĩa - nhưng đọc xong thật như nước đổ lá khoai, không lưu được trong lòng người đọc một ý tứ gì.
Theo ý Bạn Đọc thì người làm thơ luật Đường cần biết những bệnh và lỗi trên để khi có cuộc thi thơ LĐ thì phải làm cho thật chuẩn mới hi vọng có giải gì đó, một khi mình đã có tứ hay hay.
Còn làm thơ không để dự thi, vì YÊU THƠ đơn thuần hoặc giao lưu cùng bè bạn thì GIỮ ĐƯỢC ĐẾN ĐÂU HAY ĐẾN ĐẤY, nếu không sẽ quá sợ đến mức không dám làm TLĐ nữa.
Tất nhiên ý kiến trên cũng chỉ là của cá nhân hoặc một nhóm bạn bè tâm đắc TLĐ tán thành với nhau. Mỗi người đều có quyền giữ quan điểm riêng của mình.
CÔT LÕI LÀ LÀM SAO CHO THƠ LUẬT ĐƯỜNG NGÀY CÀNG HAY VÀ PHONG PHÚ HƠN LÊN, KHÔNG VÌ QUÁ KHUÔN PHÉP ĐẾN NỖI KHÔNG TẢI NỔI ĐƯỢC TỨ THƠ NGỒN NGỘN CỦA THỜI @ RỒI BỊ XẾP VAò XÓ như những năm 30 của thế kỉ trước.
Mong được nghe các ý kiến thảo luận khác của mọi người.
Bạn Đọc
Niêm luật Thơ Đường chặt chẽ quá thì sẽ cứng ngắt và bó buộc hồn thơ mất thôi!
HM làm thơ toàn theo cảm xúc, ít khi chú ý quy luật thơ. Thôi đành từ giã Thơ Đường kể từ đây.
Những bài thơ mắc bệnh và lỗi như bài viết nêu, lại là những bài thơ khá hay được lưu truyền.
Mình nghĩ khi làm thơ nói chung, thơ Đường luật nói riêng quan trọng là cấu tứ cho hay. Chính hồn thơ đã làm cho thơ thăng hoa!
Thơ Đường cần đúng niêm, luật. Dù hay mấy không đúng niêm luật thì không thể gọi thơ Đường
Bạn Đọc muốn cùng mọi người phân định rạch ròi một số thuật ngữ trong việc viết TLĐ (thơ luật Đường) vì đa phần thuật ngữ quen dùng ở dạng tiếng Hán (hoặc tiếng Nôm) mà lớp trẻ bây giờ ít người hiểu được tường tận
Theo Bạn Đọc thì các BỆNH và LỖI gần như nằm ngoài khái niệm NIÊM và LUẬT, nhưng lưu ý rằng một bài TLĐ viết thật đúng NIÊM và LUẬT thì tự nhiên đã tránh được kha khá BỆNH và LỖI.
Không cần phải nhắc lại hoặc thêm chi tiết mà chỉ cần đọc kĩ bài viết "NHỮNG LỖI - BỆNH TRONG KHI LÀM THƠ ĐƯỜNG LUẬT" là ta hiểu yêu cầu về tránh được các BỆNH và LỖI CAO HƠN yêu cầu đúng NIÊM VÀ LUẬT
KHông hiểu khi bạn Lê Vân commen như trên thì đã lưu tâm đến vấn đề này chưa vì viết như bạn nghĩa là KHÔNG CẦN ĐẾN BÀI ĐĂNG VỀ LỖI VÀ BỆNH LÀM GÌ. Vì "chỉ cần đúng Niêm và Luật đã được gọi là thơ luật Đường" rồi mà.
Bạn đọc không có ý muốn cãi nhau với bạn Lê Vân hay bất cứ bạn nào cả đâu. CHỈ LÀ MUỐN ĐỂ MỌI NGƯỜI CÙNG HIỂU những THUẬT NGỮ cũng như KHÁI NIỆM vốn đã được hình thành từ khi người ta viết TLĐ mà thôi
Mong được nghe thêm các cao đàm khác
Bạn đọc
Xin giới thiệu công cụ kiểm lỗi thơ Đường
http://mocgiatrang.net/?ex=1
Thơ là phải theo luật - dù chỉ viết thơ 68.
Thơ 68 thì cả nước VN ai cũng viết được nhưng hay như Truyện Kiều của Nguyễn Du thì được mấy người?
Lỗi Bệnh của bất cứ loại thơ nào chả có.
Tránh Lỗi Bệnh thực chất là nâng cao phép Dụng Tự trong hành văn mà thôi.
Lỗi bệnh ví như sạn trong chén cơm.
Cơm có sạn vẫn ăn được.
Nhưng cơm không có sạn tất nhiên phải ngon hơn.
Bạn thích loại cơm nào?
1 bài thơ dở hoặc hay tùy thuộc vào nhiều yêu cầu.
Né Lỗi Bệnh chỉ là 1 trong rất nhiều yêu cầu của thơ DL mà thôi.
Nếu bạn không có khả năng làm thơ thì ngay việc bạn làm thơ Lục bát cũng rất dở.
KHỔ THƠ ĐƯỜNG
Đường luật ngó qua khó thí mồ
Trắc bằng lộn xộn thấy bà cô
Ngon vần đối bệnh tèm lem hết
Được ý câu từ bết bát vô
Chọn tới bỏ lui hồi mắt dẹo
Thêm này bớt nọ riết hồn xô
Rèn thơ nào khác đi cày ruộng
Ráng tập mà rồi vẫn đắng cơ
DIỆP KIẾM ANH
*
TƯỞNG BỞ
Tưởng đâu Đường luật dễ quay trò
Vào cuộc xếp vần ớn thấy lo
Chệch choạc vài niêm thành tứ dở
Trệu trua cặp đối hóa câu khờ
Thay lui từ xấu tan hoang bộ
Đổi lại chỗ thừa nát bét thơ
Lúng túng loay hoay ôi thật khổ
Mồ hôi hột toát vẫn lu mờ
DIỆP KIẾM ANH
Post a Comment