Tác giả Hương Thu Ảnh từ trang thoduongdatviet.com |
Vừa qua có nhiều độc giả gửi thư hỏi về những căn bệnh trong
thơ Đường luật với mục đích muốn nắm rõ để có những tác phẩm hay. Thế giới thơ
Đường luật một lần nữa xin bàn về Những căn bệnh cần phải tránh khi sáng tác
thơ Đường luật, bài viết này trước đây đã có đăng trên Thế giới thơ Đường luật
bộ cũ. TGTĐL
Đến với thơ Đường luật, không phải chỉ cần thông qua niêm
luật, đối ngẫu… là có thể xem như đã biết về thơ Đường luật. Để biết về thơ
Đường luật, người làm thơ phải có một quá trình dài rèn luyện và làm quen
thường xuyên với thể thơ khó tính này. Qua được ngưỡng niêm luật, đối ngẫu,
chúng ta chỉ mới qua được bước thử thách thứ nhất, gọi là sạch nước cản – nói
theo những người chơi cờ.
Thế giới thơ Đường luật là thế giới mênh mông đầy sự khám
phá thú vị đối với những ai tìm đến nó. Ngoài niêm luật, đối ngẫu, chúng ta cần
biết đến các thể loại thơ của Đường luật, từ chính thể đến biến thể… tuy nhiên,
như thế vẫn chưa đủ! Để có một bài thơ hoàn hảo, người làm thơ Đường luật cần
phải biết phòng ngừa một số căn bệnh thông thường của thơ Đường luật. Tại sao
gọi là một số căn bệnh thông thường? Vì thật ra có rất nhiều căn bệnh cần phải
tránh để có một bài thơ hoàn hảo về kỹ thuật, song chúng ta chỉ bàn đến một số
căn bệnh cần thiết phải tránh khi sáng tác, vì nếu mắc phải những lỗi này, bài
thơ của chúng ta sẽ mất nhạc điệu, lặp ý, lặp từ gây nhàm chán cho người đọc.
Sau đây là một số căn bệnh thường gặp:
1. ĐIỆP TỰ:
Hay còn gọi điệp từ. Thơ Đường luật Thất ngôn bát cú chỉ có
56 từ, người xưa cho đó là 56 viên ngọc quý. Mỗi viên ngọc có giá trị riêng của
nó. Do đó người làm thơ phải biết trân trọng, không thể cẩu thả tiêu hoang từ
ngữ trong bài thơ Đường luật, uổng phí từ ngữ vốn phải được chắt lọc của thể
thơ này.
Vậy điệp tự là gì? Là tác giả đã dùng lại hai hay nhiều lần
một từ nào đó trong một bài thơ Đường luật.
Thí dụ:
Bài Khóc Thúy Kiều trang 83 thi tập Thắp sáng Đường thi 2,
bốn câu cuối của bài thơ có hai từ “mệnh”:
Hồng nhan bạc mệnh thôi đành nhẽ
Sắc nước nghiêng thành liệu đến đâu?
Mới biết mệnh trời mà trói buộc
Đố ai lường trước được mai sau!
Như vậy là tác giả đã tiêu hoang mất một viên ngọc rồi, thật
đáng tiếc lắm thay!
Trong trường hợp này ta có thể thay từ “mệnh” trong chữ “bạc
mệnh” thành “bạc phận” vẫn giữ được nguyên ý câu thơ, lại tránh được bệnh điệp
tự.
2. ĐIỆP THANH:
Trước khi tìm hiểu điệp thanh là gì, chúng ta phải tìm hiểu
thanh là gì?
Thanh: là cách phát âm cao hoặc thấp, bổng hay trầm. tiếng
Việt là tiếng đơn âm, nghĩa là mỗi tiếng chỉ có một âm, nhưng mỗi âm có nhiều
thanh.
Nhiều người vẫn nghĩ rằng tiếng Việt có 6 thanh, dựa vào các
dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu. Thật ra tiếng Việt có những tiếng
có 6 Thanh, nhưng cũng có những tiếng có
đến 8 thanh. Vậy làm sao để phân biệt tiếng nào có 6 thanh và tiếng nào có 8
thanh?
Những tiếng có 6 thanh là những tiếng khi viết có một hay
nhiều nguyên âm (voyelles) ở phía sau.
Ví dụ : tiếng “ ha”: có một nguyên âm a ở phía sau, do đó có
6 thanh: ha, há, hà, hả, hã và hạ
Những tiếng có 8 thanh là những tiếng khi viết có một hay
nhiều phụ âm (consonnes) ở phía sau.
Ví dụ: Tiếng “hiên ” có một phụ âm n ở phía sau, do đó có 8
thanh: hiên, hiến, hiền, hiển, hiện, hiết và hiệt.
Có lẽ chúng ta cũng nên liệt kê 8 thanh trong tiếng Việt để
cùng nhau nghiên cứu, ứng dụng khi sáng tác thơ Đường luật, hầu tránh được bệnh
điệp thanh.
Tám thanh đó là:
1. Phù bình thanh:
những tiếng không có dấu
2. Trầm bình thanh:
những tiếng có dấu huyền
3. Phù thượng
thanh: những tiếng có dấu ngã
4. Trầm thượng
thanh: những tiếng có dấu hỏi
5. Phù khứ thanh:
những tiếng có dấu sắc
6. Trầm khứ thanh:
những tiếng có dấu nặng
7. Phù nhập thanh:
những tiếng có dấu sắc mà đằng sau có: c, ch, p, và t.
8. Trầm nhập thanh:
những tiếng có dấu nặng, mà đằng sau có: c, ch, p và t.
Bệnh điệp thanh: là bệnh trong một câu có hai tiếng cùng
thanh với nhau.
Đối với bài thơ Thất ngôn: những tiếng thứ 4 và thứ 7 trong
các câu có vần (câu 1, 2, 4, 6 và 8) không được trùng thanh với nhau. Nghĩa là
nếu chữ thứ 7 không dấu, thì chữ thứ 4 phải có dấu và ngược lại.
Thí dụ: Hoa nở xuân tươi ý mộng mơ
Mai khoe
xuân thắm những mong chờ
(trích: Xuân thơ của Ng.M)
Trong hai câu thơ trên, câu đầu có chữ tươi và chữ mơ cùng
không dấu, tức là cùng một thanh phù bình, làm câu thơ mất nhạc.
Nếu ta sửa lại: Hoa nở xuân cười ý mộng mơ.
Câu thơ sẽ có nhạc vì không mắc bệnh điệp thanh
Cũng như vậy trong bài thơ ngũ ngôn, chữ thứ 5 và thứ 2
trong các câu có vần không được trùng thanh với nhau. Nghĩa là: nếu chữ thứ 5
không dấu, thì chữ thứ 2 phải có dấu hoặc ngược lại.
Thí dụ: Chia tay dạ thoáng đau
(trích: Lời
cuối của HH)
Trong câu thơ trên, chữ thứ 2 (tay) và thứ 5 (đau) cùng
không dấu, nghĩa là bị bệnh điệp thanh, do đó câu thơ không nhạc.
Nếu ta sửa lại: Chia tay dạ thoáng sầu
Câu thơ sẽ có nhạc và dễ đọc hơn nhiều.
Thường thì người sáng tác hay dễ mắc bệnh điệp thanh ở những
trường hợp chữ thứ tư là thanh bằng, (bài thất ngôn bát cú) song đối với những
bài chữ thứ tư là thanh trắc, thì các bạn hãy chú ý chữ thứ 2 trong câu không
nên trùng thanh với chữ thứ 7.
Ví dụ: Trăng nằm đáy nước, ánh trăng buồn. Chữ thứ 2 (nằm)
và chữ thứ 7 (buồn) trong câu cùng dấu huyền do đó câu thơ đọc lên nghe âm nằng
nặng, không nhẹ nhàng thanh thoát, song đây chỉ là một lỗi nhẹ, có thể bỏ qua.
3. ĐIỆP ÂM:
Âm là gì? Như trên đã nói, tiếng Việt là tiếng đơn âm,
nghĩa là mỗi tiếng chỉ có một âm, nhưng mỗi âm lại có nhiều thanh.
Ví dụ: Mai và khai: có cùng một âm ai
Tranh và
danh: có cùng một âm anh.
Nhưng âm “ai” lại có nhiều thanh: ai, ái, ài, ải, ãi, ại
Bệnh điệp âm: là bệnh trong một câu thơ chữ thứ 4 và thứ 7 (
thất ngôn), chữ thứ 2 và chữ thứ 5 (ngũ ngôn) có cùng một âm.
Ví dụ: Mưa gởi niềm đau giữa mắt nhau
Câu thơ trên có hai từ đau và nhau cùng âm au. Như vậy là
mắc bệnh điệp âm.
4. ĐIỆP VẬN:
Vận hay vần của một bài thơ Đường luật thường nằm ở những
chữ cuối của các câu:1,2,4,6 và 8. Như vậy mỗi bài thơ Đường luật thường có 5
vần.
Bệnh điệp vần (chữ Hán gọi là vận): là khi trong một bài
thơ có hai vần trùng nhau.
Thí dụ: bài NÚI CÔ TIÊN của H.P
Cô tiên nằm xoãi ngắm mây trời
Mái tóc bồng bềnh lướt biển khơi
Cặp mắt mơ màng chan ánh sáng
Đôi chân mềm mại duỗi song đôi
Hai gò bồng đảo chờ trăng mộng
Nguồn suối đào nguyên đợi gió trời
Đời đã bao người dù gối mỏi
Thân gần run rẩy vẫn rong chơi.
Trong bài thơ trên có nhiều bệnh khác, song chúng ta chỉ xét
đến bệnh điệp vần. Câu 1 và câu 6 cùng một vần Trời, như vậy là đã mắc bệnh
điệp vận (hay vần).
5. ĐIỆP Ý:
Thường những người khi mới tập làm thơ Đường luật, do cố cấu
trúc hai cặp trang, luận sao cho có đối ngẫu, nên thường chẻ đôi ý tưởng, làm
thành cặp câu, ví dụ: trai thanh / gái lịch, trong họ/ ngoài làng, Sớm trông/
chiều đợi … thay vì triển khai thành một câu, một số tác giả đã chẻ đôi ý tưởng
thành hai câu:
Sớm trông vời vợi đầu phai sắc
Chiều đợi xa xăm tóc ngã màu.
Hai câu thơ trên chỉ một ý: chờ đợi ai đó đến bạc đầu. nghĩa
gom lại chỉ cần một câu là đủ: sớm trông, chiều đợi đầu phai sắc… và câu thứ
hai phải tìm một ý tưởng khác để hoàn thành cặp đối, như vậy mới không mắc bệnh
điệp ý, hay người ta còn gọi là bệnh nứa bổ, chẻ tre …
6. ĐIỆP THANH VẬN:
Tiết tấu của một bài thơ Đường luật vốn đã được nghiên cứu
từ sự bỗng trầm của âm nhạc, có thăng, có trầm. Một câu cao, một câu thấp … lên
xuống nhịp nhàng, do vậy nếu người sáng tác chịu khó vận dụng đúng tiết tấu qui
định, bài thơ Đường luật đọc lên sẽ rất êm ái, nhẹ nhàng.
Thế nào là điệp thanh vận? bài thơ đường luật có 5 vần. Theo
qui luật tiết tấu người sáng tác nên gieo một vần phù bình thanh, tiếp một vần
trầm bình thanh, nghĩa là một vần không dấu và một vần dấu huyền, cứ như thế
chen kẻ đến hết 5 vần, nếu người sáng tác gieo liên tiếp hai, ba thậm chí cả
năm vần đều một thanh ( cùng không dấu hay cùng dấu huyền) sẽ mắc bệnh điệp
thanh vận.
7. PHẠM ĐỀ HAY MẠ ĐỀ:
Theo sách của Lạc Nam thì lỗi Mạ đề hay Phạm đề được
qui định: Từ câu 3 đến câu 8 của bài thơ không được dùng lại từ đã dùng ở đầu
đề. Ví dụ : đầu đề bài thơ là NHỚ NHÀ, thì từ câu 3 đến câu 8 của bài thơ không
được dùng lại hai từ “Nhớ nhà” nữa.
Theo một số tài liệu khác và nhiều người sáng tác lâu năm,
cặp trạng, luận vốn được xem là xương sống của bài thơ, do đó để tránh lỗi Mạ
đề hay Phạm đề, chỉ cần không lập lại từ đã dùng ở đầu đề trong bốn câu trạng
luận, nghĩa là từ câu 3 đến câu 6 là đủ.
Bệnh thì nhiều, song số trang có hạn, vã lại cũng chỉ nên
chú ý đến một số căn bệnh chủ yếu có thể làm mất đi giá trị của bài thơ về tính
thẩm mỹ thôi.
Điều cuối cùng người viết muốn bày tỏ cùng các bạn, đó là:
luật là luật, song ý tình bài thơ vẫn là điều quan trọng nhất. Nếu chỉ vì tránh
lỗi mà làm cho bài thơ khô cứng, nghèo nàn ý tình thì cũng không nên, chẳng hạn
như: để tránh lỗi điệp tự, người sáng tác cố tìm một từ khác để thay thế: ví
dụ: tổ quốc thế cho non sông, như thế chẳng phải tránh một lỗi này lại sa vào
một lỗi khác là nghèo ý hay sao?
Một bài thơ Đường luật hoàn hảo, phải là một bài thơ giàu ý,
khéo lời, và không mắc bệnh.
Chúc các bạn sáng tác thành công.
HT
Nguồn: CHUYÊN ĐỀ THẾ GIỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Đăng với sự đồng ý của tác giả HƯƠNG THU.
1 comment:
Thơ Đường luật khó lắm thay
Viết cho chuẩn, viết thật hay khó hè?
Cho TT hỏi khí không phải Nick của trang này là Văn Nghệ Quảng Trị mà sao hình minh họa lại là Quảng Bình quan ạ?
Post a Comment