(Truyện ngắn của
LÃO GÀN)
Thầy Hoàng Đằng, cựu giáo sư trường Trung Học Đông Hà và Nguiyễn Hoàng, Quảng Trị trước 1975. Ảnh từ trang Hội ái hữu Công Lập Đông Hà |
Hôm ấy, Thắng đi
Đà Nẵng dự đám cưới đứa cháu gọi Thắng bằng
cậu. Thắng diện bộ trang phục oách nhất: quần dài đen
sẫm ống phủ lên đôi giày đen bóng, veston đen sẫm
khoác lên áo sơ-mi trắng tinh, điểm thêm trước ngực
chiếc cà-vạt đỏ tươi.
Đường xa gần 200
cây số. Gió thổi lồng lộng qua cửa xe mở hé, đầu
tóc Thắng rối xù. Đến nơi, mới bước xuống xe, Thắng
rút từ túi veston chiếc lược nhựa màu nâu. Nhìn vào
kính chiếu hậu của chiếc xe vừa đậu, Thắng ngắm
nghía mặt mày, nghiêng đầu qua về, chãi lại tóc.
Bất chợt, trong
kính, Thắng thấy một người đàn ông già đang cỡi
chiếc xe đạp đèo hai giỏ than hầm hai bên porte-bagages –
loại than thường dùng trong các thành phố để nấu nướng
vào thời nhiên liệu khan hiếm.
Người đàn ông có
khuôn mặt giống ông thầy của Thắng hơn hai chục năm
về trước. Chiếc xe đạp cũ mèm, nước sơn trốc từng
mảng loang lổ, vừa lăn bánh vừa phát ra tiếng kêu
cộc kệch liên hồi.
Sau bao năm xa cách
và đời sống thay đổi 180 độ sau biến cố 1975, hình
ảnh thầy trong ký ức của Thắng không còn nguyên vẹn.
Dù bán tín bán nghi, Thắng chạy theo xe đạp, vượt lên
trước, chận xe lại, rối rít:
- Thưa thầy, thầy
ở đây à, thầy đi mô về ri?
Người đàn ông có
tuổi xuống xe một cách khó khăn; hai tay run run giữ
ghi-đông, cái chân đưa cao khỏi khung xe, cái đít nhấc
khỏi yên xe luống cuống. Ông nhìn Thắng, hình như đang
lục tìm trong bộ nhớ, rồi lên tiếng thủng thẳng:
- À, chào, xin
lỗi, anh là ai, tôi quên mất rồi, thời gian lâu với
công việc bề bộn khiến trí nhớ tôi không còn nguyên
vẹn.
Nghe cái giọng Quảng
Trị đặc sệt, Thắng chắc chắn đây đúng là thầy
mình rồi, Thắng mạnh dạn và hãnh diện tự giới thiệu:
- Em là Thắng,
học trò thầy tại trường trung học Đông Hà. Ngày ấy,
em học khá, kỳ thi lục các nguyệt nào cũng được thầy
khen và giao cộng điểm, tổng kết xếp vị thứ
lớp.
Ông thầy à to một
tiếng, mừng rỡ:
- À, thầy nhớ
rồi, em là Thắng đây a.
Quần áo thầy vấy
vết than đen, người thầy gầy đét. Khác hẳn với ngày
xưa. Thời ấy, nước da thầy trắng hồng, vóc thầy mảnh
khảnh; thầy đến trường trên chiếc honda 67 – loại xe
máy lúc bấy giờ thuộc loại khá sang. Thầy thường bận
áo sơ mi trắng dài tay gài măng-sét bằng những chiếc
nút óng ánh như kim cương, cổ luôn thắt cà-vạt thay đổi
màu sắc từng ngày vào lúc ấm trời, còn nếu trời se
lạnh, thầy diện đủ bộ côm – lê khi thì màu
xám, khi thì màu đen. Thầy oai phong lắm. Đám nam sinh ước
mơ sau này lớn lên sẽ được như thầy, còn trong đám
nữ sinh, những o lớn tuổi cứ mong được thầy để ý.
Hôm nay, Thắng thấy thầy thế này, tự nhiên trong lòng
Thắng, trỗi dậy sự thương xót.
Thắng mời thầy
vào một quán nước ven đường. Thắng muốn có thời giờ
nhiều và địa điểm tiện để thầy trò tâm sự cho bõ
nhớ do xa cách lâu ngày. Thầy cẩn thận dựng chiếc xe
đạp vào trụ điện, dùng tay lắc lui lắc tới xe xem thế
dựng đã vững chưa, rồi thầy đi theo Thắng vào quán.
Hai thầy trò chọn cái bàn trong góc, nơi bên trên có gắn
quạt máy. Thắng giật dây cho quạt chạy, lên tiếng gọi
chủ quán:
- Cho một két
bia Heineken loon.
Thắng có ý định
gọi thêm dĩa tôm hùm hay tôm sú làm mồi để hai thầy
trò nhậu một bữa cho “đã”. Thầy nghiêng người vào
tai Thắng, nói nhỏ:
- Thầy không
uống bia đươc. Em gọi bia thì em cứ tự nhiên uống
một mình đi nghe.
Thắng nghĩ: trong
hoàn cảnh này, chỉ uống bia cao cấp cộng đồ mồi hải
sản quý, tiêu tốn nhiều tiền mới là cách biểu
tỏ phần nào lòng tôn kính thầy. Khi nghe thầy nói vậy,
Thắng cụt hứng, đưa tay xoa đầu, rồi nhìn thẳng vào
mặt thầy, ân cần hỏi:
- Thưa thầy,
thế em có thể mời thầy uống gì?
Vẫn giọng se sẹ,
thầy đáp:
- Thật ra thầy
không khát. Em mời chẳng lẽ thầy không đi. Thôi
... để đáp ứng tấm lòng của em, thầy uống một ly
nước chanh.
Thắng chiều thầy,
xoay mặt về bà chủ quán đang ngồi, gọi:
- Chị cho hai ly
nước chanh.
Bên ly nước giải
khát, Thắng chưa kịp nói gì, thầy kể cho Thắng nghe:
- Lúc thầy đi
dạy, bên nhà vợ thầy, việc buôn bán thịnh lắm, còn
riêng thầy cũng có máu kinh doanh, “phi thương bất phú”
mà em! Thầy mua sắm nông cơ: máy cày, máy xay ..., đưa về
dưới quê, mướn người làm; thầy còn đặt địa điểm
phân phối phân hóa học khắp nơi. Đến vụ, đến mùa,
tiền vô như nước. Rủi là chiến cuộc năm 1972 xẩy
ra, thầy và gia đình phải bỏ của, chạy lấy người.
Tính về tài sản, thầy mất mát nhiều lắm; thầy chỉ
đem theo được 200 lượng vàng. Hiện tại, như em biết,
vàng có giá lắm. Một chỉ vàng giá tương đương hơn
tấn thóc, một ngôi nhà ở được nơi thành phố chỉ
giá có vài ba lượng vàng. Thầy có thể ngồi chơi cũng
không đến nỗi nào! Nhưng không lao động chân tay, không
bôi đen mình mẩy, người chung quanh so bì, dòm ngó,
sống cũng khó. Cô đang mở quán bún, hàng ngày, sáng sớm
thầy đi lấy giò, lấy bún, thầy giúp cô bưng bún
tới cho khách, thu tô không về chậu rửa, thỉnh thoảng,
thầy đi lấy than, ra chợ mua thêm rau sống. Thầy cô cộng
tác với nhau, thầy thấy đỡ chán và cũng tăng thêm hạnh
phúc.
Nghe thầy kể, Thắng
mừng lắm. Thầy biết chịu khó, tùy thời mà sống.
Những tưởng qua dâu bể cuộc đời, thầy đang lâm cảnh
khó khăn. Té ra không. Thầy khoác bề ngoài cực khổ để
lừa mắt thiên hạ.
Ly nước giải khát
mới cạn một nửa, thầy đứng dậy, nhìn tìm bà chủ
quán, giành trả tiền. Thắng không chịu.
Bắt tay tạm biệt
Thắng, thầy đu mình, cỡi lên xe, gập mình đạp. Thắng
nói vói theo:
- Em vào đây, bận
việc quá, không tranh thủ được thời gian đến thăm
thầy tại nhà, mong thầy thông cảm. Thôi ... em chào thầy
nghe, chúc thầy luôn khỏe!
Không nghe tiếng
thầy đáp lại, Thắng nghĩ có thể thầy lảng tai.
Tiếng lộc cộc xe
đạp xa dần. Sau giây phút vui mừng gặp được thầy cũ,
Thắng bắt đầu hối hận. Chắc thầy không muốn gặp
bất cứ người quen cũ nào trong hoàn cảnh như ngày hôm
ấy./.
17/11/2013
(15/10/Quý Tỵ)
No comments:
Post a Comment