Tìm hiểu một câu đối hay của Đông Các học sĩ Đinh Hồng Phiên
1. Trong bài báo
“Đông các học sĩ Đinh Hồng Phiên, tác giả khởi thảo “Đế hệ thi” và “Phiên hệ
thi”1, tác giả Đinh Văn Niêm? (Niên) có nhắc đến một số câu đối hay
của cụ Hồng Phiên. Cụ quả là một nho sĩ ưu tú thông kim bác cổ, xứng đáng được
hai vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long và Minh mạng giao cho nhiều trọng trách
như đi sứ, giám thị trường thi, soạn định thể thức cáo văn, sắc văn, sơ thảo
“Đế hệ thi” và “Phiên hệ thi”,….
Cũng theo bài báo trên, cụ Đinh Hồng Phiên
sinh năm 1764 tại làng Ông La Giáp, tổng Kim Nguyên, huyện Chân Lộc, phủ Đức
Quang (nay là xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, Nghệ An).
Ông đậu Hương Cống thứ hai, khoa thi Quý Mão, Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783) đời vua Lê Hiển Tông. Khoa này Nguyễn Du Tiên Điền đậu sinh đồ. Năm 1787, đi thi Hội ông Phiên đậu Tam trường trúng cách (ngang Phó bảng thời Nguyễn). Ông được bổ Toản tu Quốc sử quán triều Lê. Thời Nguyễn, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã vời ông ra làm quan với triều Nguyễn. Năm Gia Long thứ 14 (1815) ông được vua bổ Đốc học Quảng Nam, Năm Kỷ Mão, Gia Long thứ 18 (1819) ông được bổ Đông Các học sĩ2, sung vào đoàn đi sứ nhà Thanh, Trung Quốc. Ông có tập thơ Hán Cao Tổ và một số câu đối truyền lại đến nay.
Đến thời vua Minh Mạng, ông giữ nhiều chức vụ
quan trọng ở triều đình. Nhiều năm làm giám thị các kỳ thi Hương Trường thi
Quảng Đức, Sơn Nam
của Triều Nguyễn. Đinh Hồng Phiên có con trai là Đinh Văn Phác đã đỗ Đệ tam
giáp đồng tiến sĩ tại kỳ thi Hội năm Nhâm Ngọ, Minh Mệnh thứ 3 (1822). Nhưng
quan trọng nhất là chức “soạn định thể thức cáo văn, sắc văn”- chức này đã giúp
cho Đinh Hồng Phiên có điều kiện để soạn cho vua Minh Mạng Ngọc Phổ bài “Đế hệ
thi” và 10 bài “Phiên hệ thi”, được vua “châu phê”.
2. Trong phạm vi bài viết này, tôi muốn
đề cập phần việc giới thiệu và giải nghĩa của tác giả Đinh Văn Niên về một câu
đối rất hay của Đinh học sĩ. Đó là câu:
Yến dực duy mưu khê thuỷ viễn
Phụng mao thế mỹ cẩm sơn cao.
Dịch nghĩa của ông Niên:
Tử tôn nối nghiệp khê vàng thắm
Khoa hoạn nhiều đời núi gấm cao.
Thứ nhất, câu đối trên chép sai đến 02 chữ,
hai chữ này lại nằm trong thành ngữ được dùng nhiều ngày trước. Từ đó, việc này
dẫn tới dịch sai nghĩa câu đối trên. Đúng ra nó phải là:
Yến dực di mưu khê thuỷ viễn
Phụng mao tế mỹ cẩm sơn cao.
Thứ hai, theo thiển nghĩ của tôi, nó thiếu
nguyên tác chữ Hán, một trở ngại lớn cho độc giả hiểu hơn về tài hoa của cụ. Vả
lại, từ Hán Việt đồng âm rất nhiều. Thiếu nguyên tác sẽ không giúp người đọc
nhận ra đâu là đúng, đâu là sai. Xin ghi lại nguyên tác như sau:
燕 翼 貽 謀 溪 水 遠
鳳 毛 濟 美 錦 山 高
Thứ ba, phần giải nghĩa đi quá xa với nguyên
tác. Không rõ dựa vào đâu mà tác giả lại dịch “yến dực di mưu” là “tử tôn nối
nghiệp”, “khê thuỷ viễn” là “khê vàng thắm”, “phụng mao tế mỹ” là “khoa hoạn
nhiều đời”?
3. Theo sự tìm
hiểu của tôi thì:
a. “Yến dực di mưu” theo tự điển Thiều Chửu là
“người ta mưu tính cho đàn (đời) sau (tr.510). Nghĩa từng chữ của thành ngữ này
là: yến: chim én, dực: cánh, di: để lại, mưu: mưu kế. Con chim én nó sè cánh ra
ấp con, hình ảnh tượng trưng cho việc ông cha che chở, mưu tính công này việc
nọ cho con cháu.
b.
Theo tự điển trực tuyến, zdict.net giải thích, 燕 翼 贻 谋 (Yến dực di mưu): 原 指 周 武 王 谋 及 其 孙 而 安 抚 其 子。后 泛 指 为 后 嗣 作 好 打算。(Nguyên chỉ Chu
Vũ Vương mưu cập kỳ tôn nhi an phủ kỳ tử. Hậu phiếm chỉ vị hậu tự tác hảo đả
toán = Nguyên chỉ việc Chu Vũ Vương bàn mưu
tính việc cho cháu để an lòng con của mình. Về sau chỉ chung chung việc vì con
cháu đời sau mà an bài kế sách hay.)
c. Phụng
mao tế mỹ” là một thành ngữ khá thông dụng vào thời Nguyễn.Trong các đồ thờ tại
nhà thờ cụ Đặng Huy Trứ tại Thanh Lương, Hương Xuân, Thừa Thiên Huế có cái dĩa
“Phụng mao tế mỹ” (H.2) do cụ đặt làm ký kiểu vào năm Mậu Thìn (1848) đời Tự
Đức. Nghĩa từng chữ của thành ngữ này là: phụng: chim phượng, mao: lông, tế:
càng, mỹ: đẹp
d. Cũng theo tự điển trực tuyến, zdict.net
giải thích, 鳳 毛 濟 美(Phụng mao tế mỹ): 比 喻 后 继 者 能 与 前 人 的 业 绩 齐 美 而 发 扬 光 大。旧 时 多 用 以称 颂 贤 良 父 兄 有 优 秀 子 弟。(Tỉ dụ hậu kế giả năng
dữ tiền nhân đích nghiệp tích tề mỹ nhi phát dương quang đại. Cựu thời đa dụng
dĩ xưng tụng hiền lương phụ huynh hữu ưu tú tử đệ = Ám chỉ việc người đời sau có khả
năng tạo nên nghiệp tích tốt đẹp sánh người đời trước rồi từ đó phát dương ngày
càng xán lạn. Thời trước, cụm từ này được dùng nhiều để khen tặng các bậc phụ
huynh giỏi giang lương thiện có được con cháu ưu tú.)
Vậy suy ra câu đối trên nên hiểu như sau:
Yến dực di mưu khê thuỷ viễn: Tổ tiên lo cho con cháu đời sau như nước
khe từ xa chảy về (nuôi giòng sông ở hạ lưu), ý nói đời trước lo cho đời sau.
Phụng mao tế mỹ cẩm sơn cao: Con cháu tạo công nghiệp sáng lạn, làm
rạng rỡ tổ tiên như núi gấm ngày càng cao, ý nói đời sau làm rạng danh đời
trước.
Câu đối này treo trong nhà thờ gia tộc vô cùng
phù hợp, vừa ca tụng công lao của ông cha vừa nhắc nhở bổn phận của con cháu.
Chúng ta ai cũng là con cháu của các thế hệ trước, và rồi trở thành ông cha của
các thế hệ sau. Vậy các điều trên, “yến dực di mưu” và “phụng mao tế mỹ” là bổn
phận của tất cả chúng ta.
4. Sau khi viết bài này, tình cờ tôi biết được
hai chuyện có liên quan đến các thành ngữ trên:
a. Tai nhà thờ họ Đinh thuộc làng Kế Võ (xã Vinh Xuân, huyện
Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) có câu đối cũng dùng cặp thành ngữ trên:
燕 翼 貽 謀 觀 世 德 (Yến dực di mưu quan
thế đức)
鳳 毛 濟 美 振 家 聲 (Phụng mao tế mỹ chấn gia thanh)
Tạm dịch: -
Nhìn vào phước đức của gia đình hiện nay ta biết sự an bài của ông cha cho đời
sau.
- Làm rạng tiếng tăm của gia tộc ấy do
nỗ lực của con cháu biết phát dương quang đại công nghiệp của cha ông.
b. Tại phủ thờ Ngọc Sơn Công chúa, đường
Nguyễn Chí Thanh, Tp Huế (tức nhà ở hiện nay của nhà Huế học Phan Thuận An) có
một bức hoành phi cổ thếp vàng, điêu khắc rất đẹp có chạm hai chữ “Tế Mỹ”. Nếu
ta hiểu được như trên thì “Tế mỹ” là nói tắt của thành ngữ “Phụng mao tế mỹ” đã
bàn kỹ ở phần trước của bài viết này
Theo ông An, bức hoành phi này do cụ Trần Đình
Bá (1867 - 1933), Tổng đốc Nghệ An và Hà Tĩnh tặng vào năm Khải Định thứ 6 khi
phủ Ngọc Sơn lạc thành. Tổng đốc Trần Đình Bá
và Phò mã Trung quân Đô thống Nguyễn Hữu Tiễn (chồng của công chúa Ngọc Sơn)
vừa là đồng liêu, vừa là sui gia với nhau, cho nên mới có món quà mừng tân gia
quý báu như thế.
5. Không rõ còn ở đâu sử dụng cặp thành ngữ
trên. Đọc câu đối trên, tôi
không khỏi tự xét lấy mình. Thế hệ chúng tôi đã làm rạng danh tiền nhân tiên tổ
chưa, đã an bài tốt đẹp cho con cháu mai sau chưa hay chỉ để lại vô số bề bộn
nợ nần?
Nghĩ mà không khỏi chạnh lòng.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba – Tháng 01.2013
Chú thích: 1. Tập san Nghiên cứu Huế, Tháng
8.2012, tr.444
2. Đông
Các học sĩ là hàm quan văn, chánh tứ phẩm theo quan chế đời Gia Long. Nó khác
với điện hàm Đông Các điện Đại học sĩ, hàm quan văn chánh nhất phẩm, là
một trong Tứ trụ triều đình. (Theo Tự điển Nhà Nguyễn của Võ Hương An, tr.202)
* Đã đăng ở báo VHPG số 173 tháng
3/2013.
No comments:
Post a Comment