Phan Văn Dật
(1907-1987), bút hiệu:
Tiêu Lang, Thường Nga Phố; sinh ngày 17 tháng 8 năm
1907 [1] tại phủ An Thường công chúa ở
xóm Xuân An, làng Phú Xuân (nay là phường
Vĩnh Ninh, thành phố Huế). Tuy nhiên, chánh quán của ông thì ở làng Đạo Đầu,
xã Triệu Trung huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị.
Thân phụ
ông là Thị độc đại học
sĩ Phan Văn Dư, cháu nội nhiều đời
của Đô thông hậu quân Phan Văn Thúy (một bộ tướng
của chúa Nguyễn Ánh) và An Thường công chúa (con vua Minh Mạng).
Xuất
thân trong một gia đình
có họ ngoại với hoàng tộc,
có nhiều người làm quan võ, nhưng Phan Văn Dật lại yêu thích nghiệp
văn, rất có thể vì ông chịu ảnh hưởng
từ cha (Thị độc đại
học sĩ) và hai cậu (nhà văn Trần Thanh Mại và nhà văn Trần Thanh Địch).
Thuở
nhỏ, Phan Văn Dật theo học chữ Hán, lớn
lên mới theo học chữ quốc
ngữ tại Trường Quốc
Học Huế.
Năm 1927, ông tốt
nghiệp bằng Thành chung, vì gia cảnh phải thôi học
vào làm thư ký tại Sở Trước
bạ Đà Nẵng.
Năm 1939, ông về
lại Huế làm ở Nha Ngân khố
Trung Kỳ, rồi trải qua các sở: Sở Văn hóa, Nha Thông tin, Sở Ngân chánh Huế,
đồng thời dạy học
tại Trường Nữ học
Đồng Khánh và Trường Quốc Học
Huế.
Năm 1951, ông làm Chủ
sự Phòng Trước bạ Huế.
Tháng 11 năm này, ông được
cử đi tu nghiệp ở Trường
Trước bạ quốc gia Lyon, Pháp cho đến tháng 5năm 1952.
Năm 1959, ông được
biệt phái sang Viện Đại học
Huế, năm sau được cử làm Giảng
viên Viện Hán học, sau kiêm cả chức vụ
Giám học cho đến năm 1963.
Phan Văn Dật
mất tại Huế vào ngày 11 tháng 2 năm 1987, hưởng thọ 80 tuổi,
sau hơn mười năm rời bục giảng
và cũng còn viết lách gì
được nữa.
Tác phẩm của Phan Văn Dật, gồm:
Tác phẩm của Phan Văn Dật, gồm:
•Bâng Khuâng (thơ,
1935)
•Diễm
Dương trang (tiểu thuyết, giải
thưởng Tự lực văn đoàn năm 1935)
•Những
ngày vàng lụa (thơ, chỉ đăng rải
rác ở các báo, ở trong các sách hợp tuyển, chưa
in).
Bên cạnh
đó, ông còn nhiều bài viết đăng trên các báo: Nam Phong
tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Thần
Kinh tạp chí, Tràng An, tạp chí Khuyến học, Rạng
Đông, Cười... Ngoài ra,
ông còn để lại một số
công trình nghiên cứu và
dịch thuật khi Viện Đại học
Huế mời ông giảng dạy và tham gia việc
biên soạn sử liệu.
*
Phan Văn Dật
là một người rất mê đọc
sách báo, ngay từ 6 tuổi, ông đã biết để dành tiền
mua chúng. Năm 1924, lúc 14 tuổi,
ông bắt đầu sáng tác và có thơ văn đăng báo.
Tháng 12 năm 1935, Hoài Thanh và Hoài Chân có viết một bài về
quyển thơ Bâng khuâng của ông trên báo Tràng An, sau được trích in lại trong quyển Thi nhân Việt Nam. Cùng năm này, tiểu thuyết Diễm
Dương trang của ông được giải
thưởng của Tự lực
văn đoàn, và bài viết Nghệ thuật và nhân sinh của
ông đăng trên tạp chí
Khuyến học tại Hà Nội
số ra ngày 15 tháng 12
năm 1935. Bài viết trên
ngay sau đó đã bị báo chí
thời bấy giờ lên tiếng
phê phán và liệt ông vào
phái “ nghệ thuật vị nghệ
thuật” bên cạnh Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư,
Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều...Và cũng chính vì theo
khuynh hướng này, nên thơ ông thường đa sầu,
hoài cổ và mộng mơ.
Nhận
xét về tập thơ Bâng Khuâng, Hoài Thanh và Hoài Chân viết:
...Nguyễn
Nhược Pháp với tập "Ngày xưa"
đã nhìn vào cảnh vật xưa bằng
con mắt một người thời
nay, Phan Văn Dật với tập "Bâng khuâng" đã nhìn cảnh vật ngày nay sau bức
màn một tâm hồn xưa...Giữa
cuộc đời náo động, người
ngoảnh mặt làm ngơ và tự tạo
cho mình một thế giới riêng, một
thế giới lặng lẽ
đầy mơ mộng...
Tôi không hay hưởng cùng cái hiện tại.
Hững hờ, tôi thường để nó đi qua.
Chuyện
ngày nay sau tôi sẽ xót
xa,
Tôi chỉ
tiếc những giờ không trở
lại.
...Nói cho đúng, thi nhân chẳng phải hoàn toàn sống trong cảnh xưa cảnh mộng và cái thế giới chung quanh tuyệt không có trong con mắt thi nhân. Người cũng biết say vì cảnh đẹp thoáng qua trước mắt. Có lúc bỗng sực nhớ mình là một trai trẻ đương tuổi yêu, nghệ sĩ nắn mấy vần thơ:
Ca ngợi tình yêu, vẻ đẹp em,
Lời thơ réo rắt tôi săn tìm.
Cậy người mang tặng cho em đọc,
Em để
vào ngăn em chẳng xem.
...Thơ Phan Văn Dật không rực rỡ không réo rắt, không hùng tráng, không làm tha bồi hồi ngây ngất, nhưng vẫn khiến ta ưa đọc: nó là những vần thơ dễ thương. Ta không cảm phục mà ta lưu luyến, cũng như ta lưu luyến đất Kinh đô là nơi quê hương của thi nhân...[2]
Nhìn chung, thơ
Phan Văn Dật ít tả cảnh mà thiên về
tình, cái tình hoài niệm ấy lại thường
gửi gắm qua một câu chuyện
tự sự. Ở ông không có những
cảm xúc cháy lên như Xuân Diệu, cũng không phải là một tiếng
thơ gợi lại những
gì mộc mạc, thôn dã kiểu Nguyễn Bính, mà là thứ
tình cảm tiếc nuối, nhân hậu,
hướng về những gì đã qua đi không trở lại...
Phan Văn Dật sớm tiếp thu cổ
văn Trung Quốc và văn học cổ điển
Pháp, lại ít nhiều chịu ảnh
hưởng tư tưởng tự
do dân chủ, nhưng ông vẫn neo chặt ngòi bút của mình vào khuôn phép đạo đức truyền
thống, tuy không quá cổ hủ song cũng không dám buông thả...Điều đó, không chỉ
thể hiện trong nội dung thơ, mà nó còn biểu hiện phần
nào ở thi pháp nghệ thuật của
ông. Đa phần thơ ông làm theo lối thất ngôn, ngũ ngôn của
Đường luật, lục bát và song thất
lục bát chứ chưa dám bước
sang ranh giới của lối thơ
phá thể, thơ tự do…
Xét về
văn, Diễm Dương trang là tác phẩm văn duy nhất của Phan Văn Dật,
được viết vào khoảng thời gian ông vào làm việc tại
Sở Trước bạ Đà Nẵng,
cho nên bối cảnh được tác giả
đưa vào truyện chủ yếu
tại bãi biển Mỹ Khê nằm
cách Đà Nẵng không xa. Nội dung Diễm Dương trang kể
về mối tình của anh thư ký Tòa sứ với các cô gái nhà khá giả như
Dinh, Nga...
Đề cập đến tác phẩm
này, Từ điển Văn học (bộ
mới) viết:
Tuy kết
cấu còn đơn giản, nhưng
tác giả đã biết dẫn dắt
cốt truyện theo một trình tự thời gian đảo
ngược giữa hiện tại
và quá khứ một cách khá hiện đại. Đặc
biệt, văn chương hết sức
óng chuốt, không thua bất cứ nột
tác phẩm văn xuôi nào thời bấy giờ....Qua
"Diễm Dương trang", chứng tỏ ngoài thơ,
ông còn là một cây bút
văn xuôi tinh tế, nhạy cảm, và không thiếu
phần sắc sảo...[3]
Tiểu
thuyết Diễm Dương trang đã được
Tự lực văn đoàn xét tặng giải thưởng
năm 1935.
Trong Thi nhân Việt
Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã tuyển
giới thiệu ba bài thơ (đều ở
trong tập Bâng khuâng, và
đều được viết năm 1927) của
ông, đó là: Tiễn đưa, Bi Xuân Nương và Nàng con gái học Dương.
Trong Thi nhân tiền
chiến (quyển hạ) của
Nguyễn Tấn Long, có cả thảy 18 bài thơ
của ông. Ngoại trừ bài Chiều
mưa trên mộ địa và Tình suông ở
trong tập Bâng khuâng, số bài còn lại đều ở
trong tập Những ngày vàng lụa, chưa xuất
bản. Ở đây trích giới thiệu 4 bài đều
ở trong tập thơ chưa
in này:
Cho địa
chỉ
Nhà anh có bến
Đợi Chờ,
Có đình dựa
nguyệt, có thơ nhớ Nàng.
Xuân về
có gió đông sang,
Thu qua có cảnh
lá vàng rụng bay.
Lâm tuyền
có thú đổi thay,
Có đêm huyền
hoặc, có ngày nhớ nhung.
Có giàn hoa lý bên song,
Có con đường
sỏi đi vòng giếng thơi.
Món quê qua quả
có thời,
Tháng giêng có hạnh,
tháng mười có cam.
Có khi ngồi
ngắm trên am,
Mây hồng
dựng sớm, sương lam tỏa
chiếu.
Hư
thân có mãi cái nghèo,
Tùy lòng ai có muốn
theo thì về.
(Những ngày vàng lụa)
Tình quê
Đường
lau khuất khuất quanh quanh,
So le hoa dại
đôi cành thờ ơ.
Chiều
hôm đứng lặng như mơ,
Có cô áo nhuộm
đang chờ đợi ai?
Tay lần
nếp áo chưa phai,
Thẹn
điều vụng nghĩ ửng hai má hồng.
Mày say vẽ
nét cong cong,
Tình xuân chớm
dậy nghe lòng tỉ tê.
(Những ngày vàng lụa)
Kỷ niệm
Ai hay ghì được
cái thời gian?
Gọi lại vài giây những mộng tàn?
Hay được
vùi sâu ngày dĩ vãng,
Cùng bao phai rụng
dưới tâm can.
Đời lặng lờ đem ta đến
đâu?
Sông lòng diệu
vợi nước nông sâu?
Phong trần
áo ngả màu mưa nắng,
Lệ tủi tài hoa hoen má nâu!
Mây giạt
về đâu bốn phía trời?
Còn đây hương
ngụy buổi đôi mươi?
Phôi pha bến
nguyệt thề nhung lụa,
Bướm
trắng đà bay mộng thắm rời!
Tình gửi
vào đây một chút thơ ,
Rồi
đây giấy úa chữ lu mờ;
Khóc cười
thành bại lòng ta cũng
Thêm với
thời gian vết gió mưa.
(Những ngày vàng lụa)
Như đã
nói trên, thơ ông thường là “thứ tình cảm tiếc
nuối, nhân hậu, hướng về
những gì đã qua đi không
trở lại…”. Mặc dù vậy,
cũng có đôi ba bài mang âm hưởng
hào hùng theo phong cách thơ
tráng ca buổi ấy, thí dụ như ở
bài:
Tráng sĩ hành
Ra đi! Ghềnh
suối hãy chờ ta!
Muôn dặm
trùng san tái ngoại xa!
Gươm
báu reo vang ngời máu giận,
Đất trời say ngất khí can qua!
Ra đi! Ngựa
thét nhớ hơi ngàn,
Thác lũ sườn
non trăng ải quan,
Cất
gió khinh thường sa mạc vắng,
Quê nhà đem dọi
quẩy lên an.
Cơm áo
ra chi đời chật hẹp!
Trần
ai mấy mặt dám xông pha!
Ra khi! Rượu
nóng khà trăm chén,
Dập tắt sầu thương
chỗ xó nhà.
Hào kiệt
trắng cương vùi cát bụi,
Há mềm
nước mắt khóe thu ba?
Ra đi! Còn đợi
chờ chi nữa?
Tây lũng ba canh rộn
tiếng gà.
Lòng gởi
bốn phương chồn bước
rảo,
Vui gì chăn gối
uổng niên hoa!
Ra đi cho biết
mùi sương gió,
Tắm gội mưa mai quái nắng
tà.
Rượu tỉnh khôn xua sầu vạn cổ!
Anh hùng sao được
mấy thân già?
Phi thường
ai biết ai tri kỷ?
Mùi thế
chau mày khổ hận đa!...
Một tiếng pháo ran bày thế trận,
Cờ bay
phất phất tới lui qua.
Gươm
thiêng vút mạnh đầu tuôn rụng,
Trống
giục rền mây sát khí lòa.
Tràng tiến
ba quân giành thủ cấp,
Biền
mâu trùng điệp chớp kim sa.
Một hồi chiêng gióng khao quân sĩ,
Ngang chiếc
Long Toàn khảng khái ca.
Quạnh
quẽ đêm dài lùa gió lạnh,
Hồn ai
than khóc bãi tha ma?
Tung hoành chi sá niềm
khăn yếm,
Thề chốn sa trường tóc bạc
pha!
Vó ngựa
hề lên an,
Quay tít gươm
hề rượt gió ngàn,
Ra đi hôm nay hề
không ngoái lại,
Một sớm tranh hùng hề phá giặc tan!
(Những ngày vàng lụa)
Bùi Thụy
Đào Nguyên, giới thiệu.
Long Xuyên, ngày 2 tháng 12 năm 2009.
Chú thích:
1.Chép theo Từ
điển Văn học (bộ mới,
tr. 1399). Nhà nghiên cứu
văn học Nguyễn Tấn Long giải
thích thêm: Thi nhân Việt
Nam ghi ông Dật sinh ngày
17 tháng 8 năm 1909 là không chính xác. Là vì thuở
nhỏ ông theo học Hán văn, đến khi vào trường Quốc học
Huế thì hơi quá tuổi nên gia đình phải khai trụt xuống. (Thi nhân tiền
chiến [quyển hạ]. Nxb Sống
Mới, 1968, tr.113).
2.Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (1932-1941). Nxb Văn học in lại 1988, tr. 312.
3.Lược
theo Phạm Phú Phong, mục từ Phan Văn Dật
in trong Từ điển Văn học (bộ
mới). Nxb Thế giới, tr. 1400-1401.
No comments:
Post a Comment