Đường vào di tích lịch sử cao điểm 241. Ảnh: Phạm Xuân Dũng |
Nhiều lúc
cảm nghĩ có những con đường mang số phận giống với
con người. Điều này như đã vận vào con đường 9, con
đường trăm năm chất chứa nhiều biến động lịch sử
quốc gia và quốc tế dù chiều dài có 82 cây số tính từ
Đông Hà lên Cửa khẩu Lao Bảo của tỉnh Quảng Trị.
1. Trong
một lần nói chuyện về con đường 9, thạc sĩ sử học
Yến Thọ (Lê Đức Thọ), Phó giám đốc Trung tâm Di tích
và Danh thắng Quảng Trị đã chia sẻ dưới góc nhìn của
một nhà nghiên cứu với khái quát khá thú vị,
rằng: “Con đường 9 là con đường công cụ, con đường
muối từ Đông sang Tây, con đường hương liệu theo
chiều ngược lại. Nó cũng là con đường nối miền
xuôi với miền ngược, nối biển, đồng bằng với miền
núi; nối Kẻ Biển, Kẻ Ruộng, Kẻ Chợ với Kẻ Mọi;
nối đồng bào người Chăm, người Kinh miền xuôi với
đồng bào dân tộc thiểu số miền núi Quảng Trị”.
Khởi thủy con
đường 9 không phải xuất phát từ Đông Hà mà từ Ngã
Tư Sòng thuộc huyện Cam Lộ, nay giáp với Đông Hà, ấy
là con đường thượng đạo xuyên sơn. Thuở xưa nó chỉ
là con đường mòn, chủ yếu dành cho người đi bộ lên
vùng thượng du Cam Lộ như cách gọi của Lê Quý Đôn,
rồi đi tiếp sang tận nước Ai Lao (Lào). Chính nhờ vị
thế con đường thương đạo xuyên sơn chạy dọc theo
con sông Hiếu mà một thời đã tạo nên chợ phiên Cam
Lộ nổi tiếng một tháng sáu phiên: Mồng 3, mồng 8, 13,
18, 23, 28 Âm lịch. Nơi đây ngày xưa từng được mệnh
danh là “Tiểu Trường An” với câu hò vang vọng: “Đò
về bến Đuồi bùi ngùi nhớ cảnh/Chạnh tâm tình nhớ
núi Lãnh, sông Hương”.
Bến Đuồi
ngay sát chợ phiên, còn núi Lãnh chính là núi Mai Lĩnh
(Quảng Trị), còn sông Hương xứ Huế thì được thông
thương bằng sông đào Vĩnh Định dưới thời nhà
Nguyễn, nối kinh sư với Quảng Trị bằng sông Thạch
Hãn và sông Hiếu. Hàng hóa từ kinh kỳ có mặt tại chợ
phiên Cam Lộ theo đường thủy, rồi lên với miền ngược
theo con đường tiền thân QL 9 bây giờ.
Thật ra cách
đây hàng trăm năm, chợ phiên Cam Lộ còn là một trung
tâm ngoại thương tấp nập trên bên dưới thuyền. Tàu
bè Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… từ Cửa Việt lên chợ
phiên mua bán, rồi voi từ xứ Ai Lao thồ lâm đặc sản
như trầm hương, ngà voi xuôi theo con đường xuyên sơn
về trao đổi hàng hóa. Hãy nghe Lê Quý Đôn miêu tả
trong Phủ biên tạp lục: “Hai bên tả hữu phía trên
sông Hữu Giang dân các động sách ở, cày cấy chăn nuôi
rất nhiều, người buôn ở các xã thường mang muối,
mắm, cá khô, đồ sắt, nồi đồng, thỏi bạc, hoa
xuyến, đồ lặt vặt, đến đất người Man đổi lấy
các hàng hóa: thóc, gạo, gà, trâu, gai, sáp, mây, gió,
vải man, màn man, thuê voi chở về Cam Lộ. Người Man
cũng có lấy voi chở hàng hóa xuống chợ Cam Lộ để
bán, một con voi chở được 30 gánh, mỗi gánh được 20
bát.
Cũng có một
phiên chợ lùa trâu đến 300 con để bán, giá một con
trâu không quá 10 quan, giá một con voi chỉ hai hốt bạc
và một khẩu súng nhỏ”. Ông còn nhắc đến Tuần Ba
Giăng còn gọi là Sở Tuần hay đồn Hiếu Giang, một nơi
triều đình lập ra thu thuế buôn bán ngày xưa. Vậy thì
truyền thống nội và cả ngoại thương của Quảng Trị
đã có từ khá sớm và rất đáng tự hào dù chỉ dựa
vào một con đường mòn xuyên Á và mấy con sông.
2. Người
Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi khai thác
Đông Dương đã chú trọng đến giao thông và chính họ
đã khai sáng con đường 9 dù mục đích ban đầu vì lợi
ích thực dân của chính quốc, chính vì vậy lúc mới
khai sinh còn có tên là Con đường Thuộc địa số 9.
Ngay tại điểm khởi đầu đường 9, đầu thế kỷ
trước, người Pháp cho xây dựng ga Đông Hà phục vụ
cho con đường sắt Bắc-Nam. Chuyện làm con đường 9
cũng lắm đau thương. Ngày xưa ngược lên phía tây Quảng
Trị là chốn rừng thiêng nước độc, không chết vì
lao lực, đòn roi thì cũng chết vì sốt rét. Tình cảnh
ấy đã rơi lệ vào những câu vè than thân của phu lục
lộ: “Hai hàng nước mắt nhỏ tuôn/Cả năm phủ huyện
kéo lên nguồn, trời ơi/Cực chi da diết hỡi trời/Ai
không có chiếu trải tơi mà nằm”.
Tôi may mắn
gặp được nhân chứng cu-ly đường 9 cuối cùng nay tuổi
đã 90. Ông tên Lê Văn Đen, trú tại thôn Cam Phú,
xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông là phu
làm đường vào năm 1940 vì con đường này làm nhiều
thời kỳ khác nhau mới hoàn chỉnh kéo dài sang đến tận
biên giới Lào-Thái Lan ở sông Mê Kông. Thuở ấy cách
đây hơn ¾ thế kỷ, ông chỉ là cậu thanh niên mới
lớn, phải đi làm thay cha mẹ theo lệnh của người Pháp
và quan lại Nam triều.
Ông lão râu
tóc bạc phơ kể lại: “Thời Pháp thuộc làm con đường
9 từ Đông Hà sang Lào dân mình cũng khổ lắm. Mỗi thôn
phải cử ra 5, 6 người đi làm phu, làm từ sáng đến
tối, làm cả tuần, cả tháng, cả năm, chủ yếu làm
bằng tay, người đào đất, kẻ gánh đất. Người lớn
làm đường hay bị đánh đập, tui mới lớn đỡ
bị roi vọt hơn. Hồi đường mới làm sơ khai đoạn
trên ni (km25, QL9) bề ngang khoảng chừng hai mét
thôi, về sau mở rộng dần ”.
Trong kháng
chiến chống Pháp có một sự kiện đáng nhớ, đó là
sự ra đời của một đơn vị quân đội đặc biệt,
gọi là “Biệt động đội đường số 9” do nhà văn,
nhà báo, nhà lý luận phê bình Hồng Chương người Quảng
Trị tham gia chỉ huy. Đơn vị này đã đánh nhiều trận
từ Khe Sanh, Rào Quán về Đầu Mầu rồi Đèo Đá, Cầu
Đuồi (Cam Lộ). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, có thể
số phận con đường 9 đã rẽ sang một lối khác nếu
không có sự can thiệp của các nước lớn, đặc biệt
là Trung Quốc.
Một vấn đề
mang tính chiến lược được các bên tham gia hội nghị
Genever quan tâm là vĩ tuyến nào làm giới tuyến tạm
thời và theo đó con đường 9 sẽ thuộc về ai? Và vĩ
tuyến 17 đã được thỏa thuận làm giới tuyến tạm
thời và đường 9 thuộc về chính quyền Nam Việt Nam.
Một cuộc chiến đằng đẵng đang chờ đợi cả dân
tộc ở phía trước con đường thống nhất non sông.
3. Trong
cuộc chiến tranh vệ quốc chống Mỹ thì chiến dịch
Lam Sơn 719 (tháng 9 năm 1971) đã đi vào lịch sử và sách
báo cũng đã nói đến nhiều. Chỉ xin nhắc lại và lưu
ý một sự kiện sau đó một năm cạnh con đường 9, đó
là sự trở về của trung đoàn bộ binh 56 thuộc sư đoàn
1, quân đội Sài Gòn. Năm 1972, khi bị bao vây ở cao điểm
241 còn được người Mỹ gọi là căn cứ Carroll, sau khi
cân nhắc đã chịu đầu hàng để tránh đổ máu, trung
tá trung đoàn trưởng trung đoàn 56 Phạm Văn Đính đã
đầu hàng. Đó là quyết định không đơn giản trong
cuộc đời của một sĩ quan chuyên nghiệp, hẳn nó được
manh nha ấp ủ từ lâu. Đó là biểu tượng nhân văn
trong chiến tranh khốc liệt theo tinh thần đồng bào lấy
đại nghĩa, tình thương làm trọng mà sau này Bộ Chính
trị đã thể hiện thành nghị quyết về hòa hợp, hòa
giải dân tộc.
Có người bảo,
chiến tranh đã đi qua, không cần phải quá nhấn mạnh
chủ trương “nối vòng tay lớn”. Tuy nhiên, nói như
một bậc thức giả nếu coi sự hợp quần là chiến
thuật thì đó là bá đạo, còn nếu coi đó là chiến
lược thì chính là vương đạo. Cố kết lòng người,
thu phục nhân tâm thì luôn phải thực lòng và luôn là
chiến lược hàng đầu, phải thực hiện bền bỉ dài
lâu. Đây vẫn là vấn đề thời sự nóng hổi.
Còn nhớ sau
năm 1975, từng đoàn xe vận tải mang biển số quân đội
sang Lào. Trên buồng lái luôn có súng trường AK hoặc
thường là M.16 chiến lợi phẩm gác chéo. Không phải để
lấy lệ mà để tự vệ khi xe chạy sang đất Lào theo
con đường 9. Vào những năm đầu sau ngày thống nhất,
tàn quân phỉ Vàng Pao vẫn phục kích trên đường chặn
đánh bộ đội Việt Nam. Lực lượng Vàng Pao dù không
còn đông đến hơn ba vạn như thời được CIA o bế làm
mưa làm gió ở Tam Giác Vàng nhưng cũng vẫn là nỗi lo
của nước bạn, chúng chỉ ngán bộ đội Việt Nam. Cánh
lính vận tải Trường Sơn vốn đã dạn dày trận mạc,
luôn sẵn sàng đương đầu với thổ phỉ khi làm nhiệm
vụ vận tải. Đã có đụng độ đương nhiên phải có
thương vong, dù cả hai đất nước đã thống nhất và
hòa bình. Kể thêm điều này để hiểu thêm một đặc
điểm của lịch sử đường 9 còn ít được biết tới.
4. Rồi
một ngày đẹp trời con đường xuyên Á đã được gọi
tên trên hành lang kinh tế Đông-Tây, gọi tắt là EWEC
tại Hội nghị các bộ trưởng tiểu vùng sông Mê Kông
mở rộng được tổ chức tại Manila (Philippines). Hành
lang này được chính thức thông tuyến vào ngày
20.12.2006, cách đây đúng 10 năm. Đây là con đường dài
1450 cây số kéo dài từ Mianmar qua Thái Lan, Lào và đi
vào Việt Nam từ tỉnh Quảng Trị thông qua con đường
9. Một vận hội lớn đã mở ra cho nhiều quốc gia Đông
Nam Á, trong đó miền Trung nước ta.
Lịch sử
thường được hiểu là dài rộng, lớn lao nhưng đôi
khi lại dồn tụ trong vài chục bước chân khi sau lưng
nhà ông Lê Văn Đen là con đường 9 do Pháp xây dựng,
còn trước mặt nhà lại con đường 9 được người
Mỹ cấp tốc làm nên vào 1971. Hay nếu ai dừng chân ở
cầu Đầu Mầu sẽ thấy có đến ba chiếc cầu chính
thức mang bóng dáng lịch sử: một do Pháp xây, một do
Mỹ xây và một (đúng ra được xây hai lần) do nhà nước
ta xây sau ngày thống nhất. Câu chuyện trăm năm quần tụ
bây giờ hiện rõ một nơi mặc cho bao nhiêu con nước
Hiếu Giang đã chảy qua cầu…
Đổi thay dọc
theo và nhờ con đường 9 - đường xuyên Á thì có nhiều.
Riêng tôi vẫn nhớ Lê Qúy Đôn viết rằng từ xã Cam Lộ
(như đoạn chợ phiên) lên Tuần Ba Giăng phải đi hết
một ngày đường, đủ biết con đường mòn băng qua núi
rừng quanh co, hiểm trở. Thời Pháp thuộc, bà con vùng
này còn đi bộ về chợ phiên, đi từ khi trời chưa
sáng, đi cả đoàn nối nhau đòn xóc chỉa lên trời để
tránh bị cọp vồ. Thời bao cấp sau năm 1975 vẫn có
những đoàn người rồng rắn đi phiên. Nay sau xuất phát
chỉ cần chưa đầy mười phút, ô tô đã đến nơi
thong thả, chén trà mới pha còn chưa kịp nguội, đâu
cần đợi cả ngày trời. Có một con đường mòn đã
thành đường xuyên Á, đi từ quá khứ đến tương lai.
Phạm Xuân Dũng
No comments:
Post a Comment