Hương xưa chùa cũ
Cuộc đời tôi may mắn được gắn bó với chùa. Thời thơ ấu, cuối
tuần tôi theo cha mẹ lên chùa Tỉnh hội ở thị xã Quảng Trị, rồi từ khi bước chân
vào trường trung học cho đến nay, tôi được lui tới nhiều ngôi chùa ở Huế. Những
dịp đi xa, tôi thích đi thăm cảnh chùa và thiền viện. Nhờ những ngôi chùa đó,
đạo Phật thâm nhập vào tôi một cách tự nhiên, và không gian chùa của mình rộng
mở, chùa gần cho đến chùa xa.
Dầu sao, chốn quê nhà thời thơ ấu với mái chùa thân thương
luôn luôn là kỷ niệm thiêng liêng và trìu mến, nhất là nơi đó là mảnh đất Quảng
Trị hứng chịu biết bao tai họa thảm khốc của chiến tranh. Vì thế mỗi lần thăm
lại chốn cũ Quảng Trị, tôi xem như một lần hành hương. Mới đây, vào đầu tháng
4-2011, tôi có chuyến hành hương như thế, và lần này không những tôi đã về thăm
lại ngôi chùa Tỉnh hội, Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, mà còn thăm ngôi chùa Linh
Quang lịch sử mà tôi chưa biết.
Con đường men theo dòng sông Thạch Hãn đưa chúng tôi đến một
vùng quê nghèo: làng Trung Kiên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị. Chiến tranh đã hủy diệt nhà cửa, tài sản, công trình của tỉnh Quảng Trị,
nhưng không cướp được dòng sông trong xanh êm đềm trôi xuôi giữa đồng bằng với
mượt mà lúa, bắp, khoai, sắn. Chỉ có khác là dòng sông ngày nay hình như có hẹp
hơn, những cồn cát giữa dòng không thấy xuất hiện, có lẽ là chưa đến mùa, thay
vào đó là những độn cát bên bờ do khai thác cát bằng cơ giới, dĩ nhiên làm con
sông mất đẹp, chưa nói đến vấn nạn khai thác cát sỏi bừa bãi ảnh hưởng xấu đến
hai bên bờ và dòng chảy.
Nắng cháy và gió Lào chưa tới, tôi đứng trước chùa Linh
Quang giữa mùa xuân, với đồng rộng và trời mây thoáng đãng. Đất đai không chật,
dân cư có vẻ không nhiều, đây đó đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ. Từ đây phóng tầm mắt
xuôi theo dòng sông, gần cửa Việt là quê mẹ Bồ Bản của tôi, cũng con sông, bờ
tre, với lúa, bắp, khoai, sắn, những con đường đất quanh co, đàn bò gặm cỏ,
cũng hồi sinh sau chiến tranh tang thương, cũng giọng nói Quảng Trị như xưa nay
vẫn thế, mộc mạc tình quê như khoai to vồng thì tốt cộ[1]… Nhưng chỉ đặc biệt ở
đây, một ngôi chùa lịch sử giữa đồng xanh! Nói đúng hơn, ngôi Tổ đình Sắc tứ
Linh Quang khai sinh từ đầu thế kỷ 19 thời vua Gia Long đã tiêu tan vì chiến
tranh, nay chùa được đại trùng tu, dầu vậy, vẫn còn đó hương xưa chùa cũ. Trước
chùa, tượng Đức Quán Thế Âm lồng lộng bên ngoài khuôn viên, tiền đình chánh
điện bề thế, mái hai lớp, long lân quy phụng trên nóc, trên hàng cột. Cây xoài
cổ thụ xanh tươi rợp mát che một phần bên trái chánh điện.
Chánh điện bên trong uy nghi, trên cao là khám thờ Tam Thế
Phật, chính giữa là tượng Đức Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen, ngay trước tượng
Phật A Di Đà, hai bên là tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Thật
là an lạc khi chúng tôi được lạy Phật trong không khí tĩnh lặng, thanh bình,
bên cạnh những đạo hữu địa phương thuần thành. Nhìn ngôi chùa khang trang, tôi
cứ tưởng quý thầy và chúng điệu đi đâu đó, không ngờ chùa đã vắng bóng Tăng từ
lâu, và sau đó cũng vắng bóng vị bán thế xuất gia tạm điều hành chùa vì đã từ
trần. Giờ đây, giữ cho ngôi chùa trang nghiêm và thanh tịnh chính là công quả
của cư sĩ, của bà con dân làng. Hương hoa trái cúng Phật cũng từ tấm lòng của
Phật tử nơi đây, lâu lâu mỗi người cúng vài ba ngàn đồng làm Phật sự. Đặc biệt,
8 cư sĩ thay phiên nhau, cứ nửa tháng trực tại chùa, thỉnh chuông, hương hoa,
tiếp khách và lễ nghi ngày rằm, mồng một.
Dân làng và Phật tử quý trọng ngôi chùa không chỉ là nơi thờ
Phật, mà ngôi chùa này mang nặng chiều sâu lịch sử đạo pháp và hình ảnh những
Bồ tát hiện thân. Vào năm Gia Long nguyên niên (1802), Hòa thượng Đạo Minh Phổ
Tịnh, trụ trì kế tổ Tổ đình Báo Quốc (Huế) kiến lập Sắc tứ Linh Quang tự ở quê
nhà, làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị. Hiện nay, dầu trải qua bao nhiêu tang
thương của chiến tranh, chùa sụp đổ nhưng dân làng vẫn còn lưu giữ hồng chung
do Hòa thượng Phổ Tịnh chú tạo năm 1802, và đang thờ tại chùa. Nhu cầu Phật sự
và tâm linh không thể thiếu tiếng chuông chùa hôm sớm, vang vọng giữa thinh
không, thức tỉnh lòng người về bến giác. Từ năm 1988, chùa đã thỉnh được một
đại hồng chung, và thật bất ngờ, tôi đọc được những dòng trên đại hồng chung
này, như lại được diện kiến Ôn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Hưng Dụng, nguyên
trú trì chùa Kim Tiên (Huế) và là thầy bổn sư của tôi từ thời tôi còn thơ ấu ở
chùa Tỉnh hội Quảng Trị:
Đại hồng chung cũ do Hòa thượng hiệu Phổ Tịnh chú tạo năm
1802 nay đã mất âm thanh. Để từ âm được tiếp nối ở chốn Tổ nơi quê nhà chúng
tôi phát nguyện cúng hồng chung này làm pháp khí tổ đình.
Nguyện cầu quốc thái dân an pháp luân thường chuyển.
Phật lịch 2531 ngày 27 tháng 04 năm 1988
Hòa thượng Thích Hưng Dụng
(Đào Lương Bật)
Phụng cúng
Nếu Ôn Kim Tiên cúng đại hồng chung cho chùa năm 1988 thì
trước đó, chùa đã được đại trùng tu. Tôi lại hân hoan bất ngờ được đọc những
dòng công đức về Ôn Già Lam, cố Hòa thượng Thích Trí Thủ.
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM
Hòa thượng Thích Trí Thủ húy Tâm Như tự Đạo Giám họ Nguyễn.
Nguyên quán thôn Trung Kiên xã Triệu Thượng, Triệu Phong, Quảng Trị. Ngài xuất
gia tu học với Hòa thượng Thích Viên Thành chùa Trà Am thuộc pháp phái Tổ đình
Từ Hiếu. Thời gian chiến tranh vừa qua Tổ đình sắc tứ Linh Quang này sập đổ
hoàn toàn. Hòa thượng đứng ra tái thiết, lễ khánh thành được cử hành vào ngày
22 tháng 6 năm Quý Hợi (1983). Nhưng chưa đầy một năm sau Hòa thượng đã viên
tịch vĩnh viễn giã biệt ngôi chùa thân yêu nơi quê cũ. Ngài viên tịch tại tu viện
Quảng Hương Già Lam thành phố Hồ Chí Minh thọ 76 tuổi (1908-1984).
Ngưỡng vọng liệt vị tiền nhân tổ đức: Vị Tổ khai sinh Tổ
đình Từ Hiếu, cùng họ Nguyễn quê quán thôn Trung Kiên. Nhân ngày chung thất của
Hòa thượng Thích Trí Thủ toàn thể pháp pháp Tổ đình Từ Hiếu thành kính ghi tạc
những dòng này để tưởng niệm công đức của Hòa thượng.
Huế, ngày 20 tháng 4 năm Giáp Tý
Pháp phái Tổ đình Từ Hiếu
Hành trạng của Hòa thượng Thích Trí Thủ gắn liền với công
cuộc phục hưng của Phật giáo Việt Nam, cũng như những thử thách cam go của Đạo
pháp trước sóng gió thời đại. Hòa thượng đã đảm nhận nhiều trọng trách trên các
lãnh vực hoằng pháp, đào tạo Tăng tài tại Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn,
cũng như lãnh đạo Giáo hội trước năm 1975, mở đầu hệ thống trường Bồ Đề, đại
trùng tu Tổ đình Báo Quốc (Huế), khai sơn tu viện Quảng Hương Già Lam (Sài
Gòn). Dù bề bộn Phật sự, Hòa thượng vẫn dành thời gian biên soạn sách về kinh
và luật. Cuối đời, Hòa thượng vẫn phải hy sinh đứng ra gánh vác trọng trách Chủ
tịch HĐTS T.Ư GHPGVN trong thời kỳ lịch sử vô cùng khó khăn cho Đạo pháp sau
năm 1975.
Thật khó nói hết cuộc đời vì Đạo pháp và Dân tộc của Hòa
thượng trong giai đoạn lịch sử đầy phong ba bão táp của thế sự. May mắn thay
hôm nay, đứng trước ngôi chùa này, tôi tưởng nhớ hình ảnh cao đẹp mà gần gũi
của Hòa thượng như một người dân Trung Kiên nhớ quê nhà yêu dấu, nhớ con sông,
bờ tre soi bóng nước, vồng rau, luống cải, hương sen thoảng trong gió. Nhớ quê
nghèo nhưng đậm tình nghĩa, buồn vui, no đói san sẻ cùng nhau, rộn rã tiếng
cười và câu hát dân ca, sớm hôm tiếng chuông chùa đi vào lòng người. Bình yên,
thanh thản giữa biển rộng trời cao… Bài thơ “Nhớ làng” của Hòa thượng - được
khắc ghi trước tiền đình - thật là êm đềm, dịu dàng mà tha thiết khiến người
đọc bùi ngùi xúc động, đồng thời cảm nhận tình đời, tình quê và tình đạo hòa
quyện vào nhau như là nét văn hóa tâm linh căn bản của người dân quê miền
Trung.
Nhớ làng
Tôi nhớ làng tôi sống cực nghèo,
Lũy tre soi bóng nước trong veo.
Quanh năm phẳng lặng dòng sông Hãn,
Đùm bọc thương yêu tấm nhiễu điều
Làng tôi xa lánh cảnh phồn hoa,
Sớm tối chuông ngân khắp mọi nhà.
Luống cải, vồng rau sinh hoạt thú,
Tiếng cười xen lẫn tiếng dân ca.
Làng tôi cát mịn nước hồ trong,
Gió mát sen thơm dân một lòng.
Chạp giỗ sum vầy tình nội ngoại,
Buồn vui san sẻ đói no chung.
Làng tôi khó tả hết tình yêu,
Dẫu nói bao nhiêu chẳng thấy nhiều.
Biển rộng trời cao tôi thấy nhỏ,
Trung Kiên đất tổ ngập tình yêu…
Tình yêu đó đã truyền lại cho người dân Trung Kiên để hôm
nay chúng tôi được lạy Phật giữa đất trời thanh bình, cũng như được tôn kính Tổ
khai sinh chùa và chư vị Đại lão Hòa thượng dày công đức đối với Phật giáo Việt
Nam.
Điều mong mỏi lớn nhất của Phật tử nơi đây là chùa sớm đón
được vị xuất gia đạo hạnh để giáo pháp từ bi và trí tuệ của Đức Phật ăn sâu và
lan tỏa tại nơi quê hương hiền hòa này, cũng như hoạt động lễ nghi và hoằng
pháp có nền nếp, đúng theo Chánh pháp. Không chóng thì chầy, tôi tin rằng chùa
sẽ mang đầy đủ ý nghĩa của ngôi Tam bảo, truyền lại từ ngôi Sắc tứ Linh Quang
tự lịch sử, giữa chốn quê nghèo mà chan chứa tình đạo và tình người.
Cao Huy Hóa (tháng 5-2011)
Ghi chú :
[1] Khoai to vồng thì tốt củ
Ảnh : Chùa Linh Quang
No comments:
Post a Comment