Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn tít mù, vượt bao ghềnh thác sau
bao sôi réo vang động núi rừng rồi khoan thai mềm mại những đường uốn xuôi
xuống chân đồng bằng, con sông như mái tóc con gái buông thả lãng mạn làm dịu
gió khô và nắng lửa. Lòng sông rộng sâu, nước trong xanh thăm thẳm. Làng tôi cách
làng bên một chuyến đò ngang. Con gái làng tóc dài da trắng. Lớn lên thường lấy
chồng xa, phần đông đều khá giả. Mẹ tôi bảo: Nước Thác Ma là nước suối tiên,
làm việc vất vả ngâm mình vào muộn phiền gội hết. Cái nõn nường làng ta từ đấy
mà ra cả con ạ!
Lớn lên tôi mới vỡ lẽ, nhiều mỹ nữ ngày xưa được tiến cung
từ cái làng mỹ nhân này. Nhưng tôi còn băn khoăn tìm lời đáp, vì sao con sông
hiền hòa thế kia, gắn liền với một thiên tình sử đẫm nước mắt lại có cái tên
quái đản, ẩn giấu bí mật như những chuyện đường đường rừng?
Thời gian phôi pha theo năm tháng, dòng sông cuộc đời lắm
lúc vùn vụt lao đi, cuộn xoáy như thác đổ, lùi dần trong trí của tôi những giấc
mơ hoang tưởng nhưng cái xóm chài ẩn khuất phía cuối làng thì mãi còn rưng rức
một miền xa xót. Xóm có dăm bảy con đò nương tựa vào nhau. Ngày đông tháng giá
im lìm như ốc đảo hoang. Chỉ những ngày đẹp trời, những lúc sông yên nước lặng,
tiếng sào đập nước, tiếng gõ lanh canh đuổi cá mới bắt gặp người dân xóm chài
thân gần với đời sống của quê hương. Những lúc đó tôi thả bộ bước chân trần
thoải mái no mắt nhìn bãi bờ xanh mát ngô non mà không khỏi vương mang nỗi buồn
về những cuộc đời sông nước ngăn cách ra một thế giới. Trong óc tôi vang vang
lời vị giáo sư trẻ thao thao trình thuyết về gốc rễ văn hóa làng, về cái hố
ngăn cách chính cư với ngụ cư. Theo ông, cơ sở phân biệt này hằn sâu cái quan
niệm ăn ở chính tắc của người làm nông. Họ cần nương tựa vào nhau thường nhật
cũng như khi tối lửa tắt đèn. Phá vỡ cái quan niệm qua lại ấy chỉ có bỏ làng mà
đi, kẻ tha hương mù mờ gốc tích mấy ai được quý trọng? Nhưng xem ra mỗi cây mỗi
hoa mỗi nhà mỗi cảnh, vận vào làng tôi, tôi đâm nghi ngờ cái lý thuyết áp đặt
như chính điều phi lý “cứu nhân, nhân trả oán”. Con người ta rồi ra ai cũng
phải chết. Dân xóm chài chết không có đất chôn. Ngày hằng sống phấp phỏng lo
âu, về cõi vĩnh hằng còn mang vác gánh nặng giữ đất thành những gò đống giăng
hàng làm mốc chỉ giới trấn ải cho lề thói hẹp hòi, ích kỷ. Chẳng lẽ các cụ ngày
xưa vô can? Chuyện kể rành rành từ đời cố nội tôi truyền lại ông nội, ông nội
truyền lại cho bố tôi, là đời thứ 15, rằng: Vào đời thứ sáu, cụ Tổ dòng họ nhà
tôi đem lòng mê mẩn một cô bán cá xinh giòn hơn cả các thôn nữ trong vùng. Thế
là điểm đột phá hàng rào chính cư với ngụ cư xảy ra chưa từng có bao giờ. Nếu
cụ không phải là quan tại chức đương triều chắc khó mà gỡ oan nghiệt tự buộc
vào mình. Đáng buồn là sau này đông đúc con cháu làm rạng danh dòng tộc nhưng
lại quên mất mình là hậu bối cụ bà. Cái tư tưởng đáng nguyền rủa kia như ma ám,
như độc dược làm tê liệt không ít tâm hồn con trẻ. Và điều đáng tiếc vẫn cứ xảy
ra. Hôm làng tôi biểu dương kèm tiền thưởng con em thi đỗ vào đại học, lần đầu
tiên xóm chài ghi vào bảng vàng tân khoa nhưng lại không được ân thưởng “vinh
quy”. Bày tỏ sự bất bình này, tôi dò ý kiến của bố:
- Con thật không ngờ chú Quỳ (chú là Hội chủ làng) xử tệ với
một đứa trẻ. Cái ác cảm thâm căn cố đế không thể chấp nhận được!
Bố tôi cũng bực bội:
- Hắn là thằng vong ân bội nghĩa. Năm Bính Thân mà không có
ông Rạng cứu thì xác không còn để mà chôn. Đừng nói chi sống đến bây giờ.
Chính ông Rạng, bố đứa trẻ, là người ngụp lặn bở hơi tai mò
tìm chú bị lật xuồng giữa cánh đồng sóng to gió lớn nước ngập mênh mông chi xứ.
Ấy vậy mà trò đời u mê xui khiến thế nào, chú chưa làm được điều gì đền đáp
ông, ông lại biếu khi thì con cá to, khi thì chai rượu gạo, bởi xa lo ngày gần
đất xa trời còn có chỗ yên nằm. Ông Rạng lớn tuổi thế mà chân lên bờ gặp ai
cũng không thiếu lời chào. Dáng vẻ xăm xắn thủ phận dân ngụ cư thật tội nghiệp.
Đi xa về, nhiều bận gặp ông lại thấy xấu hổ cho cả chính tôi. Vì từ trong sâu
thẳm của đôi mắt u uẩn kia, tôi có cảm giác rằng, ông nhìn tôi cũng đại loại
dân chính cư thôi.
***
Chớp mắt đã hai mươi lăm năm. Dòng đời quanh co đi ra lối
thẳng. Xóm ngụ cư không còn. Ông Rạng ngày xưa cũng thành người thiên cổ. Chẳng
phải chuyện bể dâu hưng phế mà mai hậu vốn sẵn sự sắp đặt. Tôi vui lây với con
cháu ông Rạng nhưng lòng không nguôi thao thức. Giá như cuộc đời mới đến sớm
hơn, ông Rạng ơi! Xóm ngụ cư ơi!
Báo QT, số ra ngày 05/12/1997
Võ Văn Hoa gởi đăng
No comments:
Post a Comment