|
Năm 1970 tôi bắt đầu
biết tiếng Pháp nhờ học với thầy Lê Văn Quýt- Năm sau tôi học tiếp môn sinh ngữ
phụ này với thầy Cao Hữu Điền. Mỗi thầy có một lối giảng dạy khác nhau. Một
thầy giáo già đầy kinh nghiệm với lối dạy kinh điển - học từ ABC và luôn bắt học
trò học thuộc lòng bài học. Một thầy giáo trẻ, kiến thức đại học, với lối dạy “fantesie” hơn. Chủ yếu hoc sinh
nghe bài giảng và tự giác học hơn là bị trả bài theo lối truyền thống.
Thầy Cao Hữu Điền -
một giáo sư trẻ, vừa tốt nghiệp đại học
sư phạm Huế, vóc dáng thư sinh, nước da trắng và mái tóc dài rất nghệ sỹ. Nếu
tôi nhớ không lầm thẩy Điền ra dạy
trường Nguyễn Hoàng cùng năm với thấy Trần Ngọc Cư và thầy Lê Văn Gioang.
Tôi nhớ thầy lên lớp giảng bài nhỏ nhẹ và ít truy bài nên không khí lớp ít sôi nổi hơn giờ học với
thầy Quýt.
Lối dạy đó thích hợp với sinh viên hơn là học sinh tỉnh lẻ
như tụi tôi, may mà có căn bản từ năm học lớp 10 nên một số bạn theo kịp trong
đó có Võ T. Quỳnh, H.T. Bích Hường, Thu
Trang, Thái H. Nguyên, Trần Đ. Hành…
Thầy đi dạy nhưng hình như tâm trí để dành cho những hoài
bảo khác, nên ít đầu tư hoàn toàn cho công việc. Bạn bè của thầy ngoài ít đồng nghiệp thân thiết, còn có anh H. N. Đ., một phó quận trưởng bỏ công việc
về tỉnh lỵ cầm đàn violon ra đường cản đường xe Mỹ!
Trong những lần xôn xao như thế, tôi thấy thầy Đ. xuất hiện
loay hoay chăm sóc bạn - người bạn mà lúc đó nhiều người bảo là điên vì dám chống
lại chính quyền và bỏ việc!
Thời đó thầy hay ghé nhà của Lê Đ. T. Thành, là bạn cùng lớp,
cùng xóm, vừa là cháu gọi tôi bằng cậu
vì anh Đ., bạn thầy, hay về nhà Thành chơi và ở lại.
Tôi có cảm tình với giọng Huế nhẹ nhàng của thầy và thích
lối phản kháng phản chiến rất tuổi trẻ mà thầy tham gia dù thời đó tôi chẳng có
chính kiến gì rõ ràng về chính trị chính em. Thầy giản dị hơn thầy Trần Ngọc Cư,
ít nói chuyện thời cuộc trong lớp và ít mĩa mai cuộc đời…, có thể do điều đó nên
học trò dễ gần gũi với thầy hơn chăng?
Năm 1972 chiến sự xảy ra tại Quảng Trị, học hành chưa hết học kỳ 1 thì thầy cô & học trò NH tan đàn xẻ nghé - từ
đó tôi bặt tin thầy.
Tôi gặp lại thầy năm
1997 hay 98 gì đó tại quán Rất Huế của N.Đ. Mừng, lúc đó thầy còn khỏe, đang điều
hành một công ty lữ hành chuyên giao dịch với khách Tây nên tiền bạc đủng đỉnh, hay rủ học trò cũ đi nhậu. Mỗi buổi nhậu
đều có đàn hát, thơ phú vì thầy là một chàng nghệ sỹ mắc đọa với trần gian mà!
Tôi bận công việc nên thỉnh thoảng mới đến chơi với thầy. Chỉ nhớ mỗi lần gặp ban đầu chỉ một hai người,
sau đó là năm sáu người và cuối là nhiều
người. Hình như là thầy sợ cô đơn khi thiếu bạn bè?
Có lần tôi mời thầy về nhà dùng cơm, thầy uống không nhiều nhưng thích nhìn ly rượu và thích
nói chuyện hơn. Chuyện của thầy bảng lảng như nước chảy mây trôi, không có sự
bắt đầu và kết thúc: một cảm giác tê tái nhớ nhà khi lang thang bên dòng sông
Sein ngắm hoàng hôn, chút bâng khuâng nhớ nhung khi ngổi bên chiếc cầu ở biên
giới bên trời Tây, một cái chào xã giao
của người con dành cho cha sau bao năm trời mới gặp lại trên đất Mỹ, một nét văn hóa khác biệt của dân xứ này xứ nọ… phải chịu khó ngồi nghe, đừng vội nhỉn đồng hồ, phải đi đó đi đây
hay đọc sách nhiều mới cảm được cái tâm sự rất thực của nguòi đàn ông sinh ra ở
xứ Huế nhưng đôi chân và cái đầu thì đi
khắp nơi trên thế giới nên câu chuyện cũng trở thành “quốc tế”.
Những năm sau, do bệnh nên khi nhậu thầy thay ly bia bằng ly nước trà. Ai mà trách người bệnh nên chuyện thầy ngồi
nhậu mà chẳng uống chẳng ăn là hình ảnh quen thuộc với bạn hữu ở SG.
Sau một thời gian thầy dứt khỏi công việc, ra Huế dưỡng bệnh
và lúc đó thầy biết nghe lời bác sỹ và bạn đời Ái Anh hơn.
Hè năm 2007 về họp mặt Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị xong tôi vào Huế thăm thầy
trước khi vào lại SG. Hai thầy trò đàm đạo tâm đắc đủ thứ chuyện trên đời đến nỗi quên cả ăn tối
và suýt trễ chuyến bay đêm.
Ngôi nhà 13 Phạm Ngũ Lão của thầy và chị Ái Anh là điểm “tập kết” của bạn bè tứ phương khi ra miền Trung.
Thầy làm du lịch kinh nghiệm như thế nào không rõ, nhưng một
đôi vợ chồng nguòi Pháp là bạn của em
trai tôi luôn hết lời ca ngợi thầy như
là một người VN có kiến thức xã hội uyên thâm, sử dụng ngoại ngữ tuyệt vời, sống quan tâm đến mọi người đến nỗi lúc đi du nghiệp từ Pháp chú ấy gọi về
hỏi tôi thầy Điền là ai.
Nay do bệnh nên ít đi xa, nhưng thầy lại thường xuyên gặp gỡ bạn bè trên mạng. Ngày nào thầy cũng
cho những bạn bè xa biết thời tiết của Huế như thế nào và nhất là
tin tức về dòng sông Hương mà thầy yêu mến vô cùng.
Tôi thích cách so sánh như thế này: Thầy Điền sinh ra không
phải để làm thầy giáo, nhưng làm một
chàng nghệ sỹ mắc đọa chốn trần gian. Ơn
Trời thầy có được cô tiên Ái Anh bầu bạn
nên đi đày mà vẫn cứ vui.
Viết trong một thoáng
nhớ về thầy.
SG 27-02-2012.
NGUYỄN VĂN TRỊ
No comments:
Post a Comment