Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, September 18, 2011

PHẠM XUÂN DŨNG - “NGƯỜI LẠ QUEN THUỘC" TRONG THƠ VÕ VĂN LUYẾN




     (Nhân đọc tập thơ "Người câu bóng mình" của Võ Văn Luyến , NXB Hội Nhà văn, 2011)

    Trong  lần chuyện trò gần đây với một họa sĩ người Quảng Trị yêu thích văn chương, anh có nhắc đến nhà thơ Võ Văn Luyến, tôi kể rằng nghe thi sĩ sắp ra tập thơ "Người câu bóng mình ", tôi đùa: "Chắc nhà thơ định học Khương Tử Nha đây." Đùa vậy thôi, tôi nhận thấy Võ Văn Luyến chăm chút đặt tên cho Mỗi -Đứa - Con - Thơ. Tên gọi các tập thơ của anh rất gợi và mang nhiều ẩn dụ, như "Trầm hương của gió", "Sự trinh bạch của ngọn nến" và giờ đây là "Người câu bóng mình".

   Người câu bóng mình - tên gọi nên thơ mang một ẩn dụ triết học vươn tới một "nhiệm vụ bất khả thi" theo cách hiểu thông tục. Nhưng, theo tôi như vậy mới Thơ và  mới Luyến. Dường như thi sĩ đã mạo hiểm mặc định hồn mình trong một lập trình thơ mới không ít chông gai nhưng cũng đầy thú vị mà chỉ có những người táo bạo mới dám dấn thân trên hành trình sáng tạo. Người đọc hồi hộp theo dõi cuộc chơi tao nhã và nhọc nhằn rồi reo mừng khi thi sĩ đã về đến đích dù xiêm áo tả tơi.

   Với "Người câu bóng mình", thơ Luyến nhiều bài đã bắt đầu chín tới. Những bài thơ như "Mẹ ơi, xuân đến rồi kia", "Mẹ lũ vùng quê", "Lời chào tháng giêng"...khá hay. Ta đọc thấy lời quê khi tác giả hóa thân vào khoai lúa, vào hồn vía quê hương và vạt áo mẹ già. Tất cả hiện ra hây đỏ và thơm nồng như gò má em gái Kim Long một chiều rượu gạo.

   Khi tưởng vọng trước vong linh lương y - đạo sĩ Võ Thìn, một kẻ sĩ đáng kính, một nhân cách đáng trọng, một tấm lòng đáng quý được văn nghệ sĩ, trí thức Quảng Trị và bạn hữu gần xa nhớ tiếc, thi sĩ Võ Văn Luyến đã có bài thơ xúc động:

          Người đi rồi!
         Sông thơ nấc nghẹn núi đồi thắt tim
         Bàng hoàng gió ngác ngơ tìm
         Cau đau rụng vỡ chân chim câu thề

         Đường xưa mây trắng mải mê
         Bùa yêu trổ ngọn bồ đề người qua
         Áo sương nguyệt bạch đôi tà
         Lở bồi mấy bến phù hoa...thôi đành

         Tiễn người về cõi cao xanh
         Một chung ta uống tàn canh hồng trần.

                                        ( Thơ viết cho người đi xa)

   Nếu những bài thơ kể trên là con đẻ của làng quê thứ thiệt thì với "Vần tháng giêng", nhịp phách thơ đã có nhiều biến hóa, một chân vẫn đứng vững trên phù sa luống cày truyền thống còn chân kia đã tự tin bước vào hiện đại :

       Tháng giêng vào ta, gió lộng trăng ngà
                                                    đồng xanh sương trắng.
       Cúc áo nở bông bèo vẫn trên sông
                    mẹ ta lưng còng gậy cong tay nải;
                               này người em gái mà mắt thị thành
                                       mà áo phong phanh ngó sen ngơ ngác.


       ... Tháng giêng vào ta, có mẹ có cha có ông có bà có con cá bống.
           có vườn ươm nắng nhả ngọc bầu trời
                                               có cả chuỗi cười kết thành tràng hạt;
           câu kinh lạc mất ở phía niết bàn, người gánh đa đoan
                                                                          chất miền trần thế.

                                                               (Vần tháng giêng)

    Nhiều bài thơ hiện đại của Luyến - tôi nghĩ vậy- đã định hình cho thi pháp của anh. Đó là '' Đêm nghe hàng rào điện tử McNaMara kể chuyện", " Lan man đêm mất ngủ", "Những gương mặt", " Thơ nhặt dọc đường" 1 và 2, '' Đà nẵng ký sự 1972 (trích)"...Ở những bài hay, ý hay, câu hay, tính hiện đại trong thơ Luyến hiện ra thuyết phục từ máu thịt thi ca, từ cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện chứ không phải hiện đại lấy được, hiện đại quàng xiên đánh đố hay hậu hiện đại thời thượng giả cầy...

    Viết về đề tài chiến tranh, bài thơ" Đêm nghe Hàng rào điện tử McNaMara kể chuyện " là một tìm tòi khám phá của nhà thơ khi tác giả để cho sắt thép vô tri "tự sự":
      vượt nghìn dặm trùng dương
      mang cái tên chung về đây thấm mệt
      chúng tôi
      những linh hồn chết
      những phận đời rỉ sắt
      ngày đêm rình rập con người
      như thú hoang chờ mồi
      say giấc mê tàn độc...

  hay "Thơ nhặt dọc đường" bài (1):

      Đẩy xuống Tiền Đường
      Những câu thơ bạc mệnh
      Ném vào lồng chim
      Những dòng văn gãy cánh


      Mũi chông mồ côi
      Ngọn bút mồ côi
      Tôi.

   Bài thơ như một công án về hoạt động sáng tạo coi đó là một khổ sai tự nguyện vừa cám dỗ lại vừa bất trắc, như thể một định mệnh thơ không thể chối từ.

  và bài (2):

      Những con chữ quẫy đạp giãy giụa
                                                    trong vũng mực đỏ
      Bởi chúng khước từ gấm vóc lụa là
      chúng lãng quên bổn phận nâng khăn sửa túi
      chúng báng bổ thánh thần
                                             và không chịu làm con rối


      Những con chữ mang dáng kẻ hát rong đường phố
      không cúi đầu,ngửa tay
      coi trái đất là hòn bi lăn vào phận số

      coi bóng đêm là giấc mơ sinh nở
      coi con chuồn chuồn là vĩ nhân lim dim bên lá cỏ
      coi hạt cát làm nên báu vật của đời.

Bài thơ là một Phúc Âm vinh danh sứ mệnh thi ca và giống nòi thi sĩ.

   "Người câu bóng mình" đã chạm tới những vần thơ đốn ngộ trong tâm thế của một thiền sư ở chợ:
      người đàn ông giết mình bằng thời gian
      bằng những hạt hồng cầu mê ngủ
      bằng những con chữ U chạy nhanh như gió
      up ngược chiều trái tim

      người đàn ông ngửa cổ cầu bình yên
      một ngìn năm sau, một nghìn năm trước
      hạnh phúc nát nhàu, tình yêu mất được
      tiếng mõ,câu kinh cạn đêm linh hồn

      người đàn ông bỏ quên nụ hôn
      bỏ quên bông hồng bông hồng bông hồng
                                                                   ngoài cửa sổ
      bỏ mái chèo khuya,bỏ ồn ào phố
      ngồi câu bóng mình...

   Gặp lại Luyến Thơ như gặp lại một người bạn cũ. Vừa quen vừa lạ, vừa thân thuộc lại vừa tươi mới, vừa mê đắm, nồng nàn lại vừa ánh lên trí tuệ, tỉnh táo, vừa cảm hết lại vừa không hiểu hết. Thú vị thay cho những ai hết mình với nghiệm sinh thơ qua những mệt nhoài...



                                                                     Phạm Xuân Dũng

No comments: