Nhà văn Khê Giang |
Sinh thời mẹ là một thiếu phụ mảnh khảnh hiền lành và yếu đuối,
ngoài sắc đẹp ra trời chẳng ban cho bà thêm thứ gì để có thể đổi, mua chút hạnh
phúc trong quảng đời làm dâu, làm vợ. Tôi mồ côi mẹ khi vừa chín tuổi, cái tuổi
chưa đủ lớn để kịp thương mẹ, nhớ nhiều về mẹ, tuy nhiên trong những hình ảnh
chắp nối vụn vặt, đứt quảng của tuổi thơ, sự nhớ về bà đa phần là những ký ức
đau buồn.
Bà con trong xóm bảo bà là người yếu bóng
yếu vía, hay yếu tim gì đó, bởi cuộc đời làm dâu của mẹ như một con cá nhỏ nằm
trong chiếc ao tù, để tránh ngột ngạt giữa muôn loài thủy sinh đang băng ngập
mặt nước, ngày ngày mẹ phải len lỏi, trầy trụa thân mình mỗi khi ngoi lên để
thở. Chính cái cảnh ngụp lặn, bấp bênh trong sự quẩn quanh đó đã đẩy mẹ suốt
ngày co ro trong niềm sợ hải. Cái sợ như chiếc bóng đeo đuổi, rình rập, lần sờ
lên từng bước đi, lăn vào từng nếp nghĩ, có lúc chúng tràn về ngập lụt cả những
giấc mơ.
Mang tiếng làm dâu trong gia đình khá giả, nhưng cuộc sống
của mẹ lại vật vờ, xác xơ như đám bèo giữa mùa mưa bão. Lỡ để trâu ăn lúa, lỡ
bị vở cái chén, cái tô hay để trôi đôộc gánh nước dưới bến sông là mặt cắt
không còn chút máu, lấm la lấm lét, rón rén, sợ sệt khi bẩm trình…chồng.
Nghe Canh nông ầm oàng trên đồn rót về là bà lẩy bẩy chân
tay, cầm cái nọ xọ cái kia, gặp lúc đang thay đồ hai chân cứ giành nhau đút vào
một ống, dù chui được xuống hầm nhưng mặt mày vẫn trắng bệch, qua vạt áo mỏng
manh thấy mồn một từng nhịp đập thình thịch run lên sau lồng ngực của mẹ.
Nghe loáng thoáng Tây ruồng là bà chạy thất thần, chạy hoảng
loạn, chỉ biết túm ống quần lên để chạy, chạy một hồi lại quay về chổ cũ. Một
phần ý thức về nhan sắc, một phần bị cái nhát gan cố hữu vây bọc nên mẹ chẳng
dám liều như những phụ nữ khác: họ chỉ cần bôi lọ nghẹ lên mặt, đổ nước ăn trầu
vào trong đáy quần hay rưới nước tiểu lên tóc (thường là loại nước tiểu ngâm
phân lâu ngày để tưới cây), rồi lăn đùng ra rên hừ hừ như sắp chết, thế là
thoát.
Hũ tục làng quê, sự lem luốc, u tối của xã hội sau những đêm
dài phong kiến đã tước đoạt hầu hết cái quyền sơ đẳng về con người của mẹ. Mang
tiếng chủ nhà nhưng suốt ngày hầu như mẹ chỉ quanh quẩn dưới căn bếp ẩm thấp
tối tăm đầy bụi khói, bà rất ít khi bước lên nhà trên, nếu có cũng không được
vượt quá 1/3 căn nhà. Việc cấm kỵ này xuất phát từ một quan niệm hết sức đơn
giản: con gái từ thập tam trở lên là bắt đầu …ở dơ, mà ở dơ thì không được bước
qua từ gian giữa của ngôi nhà. Đến ngày có tháng mẹ lủi thủi ra vườn cắt lá
chuối khô để …vệ sinh, chọn lá nào sẩm màu hoặc đỏ ối càng tốt, ngồi đến đâu
lót lá chuối đến đó.
Thường ngày mẹ và mấy chị em tôi nằm chung một “chiến
tuyến”, mẹ nằm giữa, chị em tôi nằm hai bên, căn phòng không vách dừng, trống
huơ trống hoác. Mặc dù được liệt vào hạng người có đầu óc tưởng tượng, vậy mà
cho đến bây giờ tôi vẫn không nghĩ được bằng cách nào để mẹ vẫn sòn sòn cho ra
đều đặn mỗi năm một đứa. Mỗi lần sinh nở là một lần như mang trọng tội, mẹ được
đưa ra khỏi nhà. Nơi định cư mới là một túp lều tạm bợ nằm bó xó sau góc vườn:
Một chiếc chỏng tre ọp ẹp sần sùi mối mọt; một chiếc chiếu tơ tướp, xộc xệch;
chiếc ca móp méo gãy tay cầm; cái tô mẻ miệng nham nhở; một chiếc ấm sứt quai
trùi trủi khói muội. Tất cả tài sản trong chòi đều là thứ cũ, hư hỏng (vì sau
khi dùng xong phải bỏ đi).
Căn lều được đóng cửa im ỉm suốt ngày, thức ăn được đưa
qua lỗ chó chui, bên trên cánh cửa, một bẹ xương rồng xù xì gai nhọn, lạnh lùng
đong đưa như chiếc bùa của thần gác cửa. Những đêm mưa bão, chiếc lều tranh oặn
ẹo, run bần bật, gió mặc nhiên hú gào miết vào vách, chiếc đèn hột vịt chênh
chao như lòng mẹ. Háp da là “món ăn” mà bất cứ người phụ nữ nào sau sanh
nỡ cũng phải nếm. với quan niệm sợ lạnh bụng sẽ thiếu cứng cáp, một thau than
đỏ rực được cời lên, một núm vãi chứa muối ăn được hơ nóng và chườm lên da
thịt, một cảm gíac rát buốt toàn thân.. và những mảng da từ từ bong tróc vài
ngày sau đó.
Đau đớn và khủng khiếp hơn là món bóp sữa, quan niệm rằng sau
sinh nguồn sữa mẹ còn sống nên phải xào cho chín, công đoạn làm chín tương tự
như háp da nhưng tàn nhẫn hơn: cũng bếp than nóng hừng hực, cũng túm khăn chứa
muối hột, một ít lá cây, người bóp sữa lạnh lùng dùng hai tay thô kệch tiêu
diệt tòa lâu đài, mỗi lần bị bóp mạnh, cả người mẹ gồng lên, co quắp, vẽ mặt
đau đớn. Một tuyệt tác được tạo hóa dày công gầy dựng bỗng chốc trở thành bình
địa, Vĩnh viễn từ đây núp sau ngưc áo là một bình nguyên khô héo, cỗi cằn.
Chi tộc nhà tôi đã đôi lần mon men bên bờ tuyệt tự, vậy mà ba tôi
lại là đứa con trai duy nhất trong một gia đình có đến bảy chị em gái, áp lực
để ông có một mụn con trai nối dõi tông đường như chiếc đòn gánh luôn đè lên
đôi vai gầy guộc của mẹ. Với quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” nên
việc không sanh được con trai, ba tôi cũng trở thành tội đồ của gia tộc, nhưng
khổ nỗi oằn oại qua ba lần vượt cạn, mẹ tôi vẫn không cho ra nỗi một mụn quý
tử.
Điều gì đến cũng sẽ đến, cái nơm nớp âu lo sau những lần vượt cạn không như ý đã thành hiện thực, mẹ phải cắn răng nuốt nước mắt vào trong để đi cưới vợ cho ba. Cưới vợ cho chồng đồng nghĩa mẹ tôi phải ra ngủ giường ngoài, chấp nhận nhường căn buồng yên ấm cho người đàn bà khác. Như luống rau sau vườn đã trái mùa lỗi vụ, ít được chăm sóc, mẹ tôi ngày càng héo hắt, cằn cỗi,… úa tàn. Nỗi sợ hãi cuối cùng và đau đớn nhất của đời mẹ là những ngày chuẩn bị ra đi theo ông bà, không phải bà sợ cho mình mà mẹ sợ cho lũ con của mẹ thiếu người yêu thương chăm sóc, tôi đọc được ý nghĩ này của mẹ sau những lần bà lẫm bẩm một mình: “mấy đời bánh đúc có xương..” và sau đó là buông vào đêm thườn thượt những tiếng thở dài.
Bức tranh quê nhà lúc này đang trôi vào những gam màu xám
xịt. Chiến tranh, lũ lụt, nạn mất mùa.... đã đẩy người dân quê tôi rơi vào cảnh
bần cùng, đói kém. Những con đường co quắp, xanh xao. Những túp lều xác xơ chập
chờn trong giấc ngủ, hết rau cháo, nhiều nhà phải dùng củ chuối thay cơm. Mặc
dù mất do bệnh, nhưng mẹ tôi đã ra đi đúng vào những ngày đen tối, vặt vẹo nhất
của quê hương, cái đói dai dẳng, lê thê đã ngấu nghiến bào mòn ruột gan người ở
lại, đã hút khô những giọt mặn thâm tình, khiến chúng tôi không còn nhiều nước
mắt để khóc cho mẹ. Cuộc tiễn đưa bà về nơi yên nghỉ cuối cùng cũng quạnh quẻ
héo hắt bơ phờ như những chuổi ngày mẹ lam lũ nhọc nhằn lăn qua cuộc sống.
Cùng thân phận đàn bà, trải qua hơn năm mươi năm làm vợ
làm mẹ, tôi vẫn rùng mình mỗi khi nghĩ về cuộc đời đau buồn ngắn ngủi của bà.
Lần tìm qua hết hồi ức, tôi không kiếm đâu ra những chuổi ngày, thậm chí những
khoảnh khắc sung sướng hạnh phúc của mẹ. Sau những ngày mồ côi và mãi mãi cho
đến bây giờ, mỗi khi nghĩ về mẹ, hình ảnh những tàu lá chuối đỏ ối, vẫn hiện về
úp mặt run rẫy; bóng dáng túp lều tranh tàn tạ vẫn đứng lom khom bấm chân trong
gió và gương mặt lấm lét, bơ phờ của mẹ vẫn quằn quại, đau đớn hiện về.
Khê Giang
No comments:
Post a Comment