Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, September 27, 2021

BÀI THƠ "ĐÂY THÔN VỸ DẠ" CỦA HÀN MẶC TỬ - Phạm Ngọc Thái

BÀI THƠ "ĐÂY THÔN VỸ DẠ" 

CỦA HÀN MẶC TỬ

         

                           Phạm Ngọc Thái

 

 Thi nhân Hàn Mặc Tử

                    

 

        ĐÂY THÔN VỸ DẠ

 

Sao anh không về chơi thôn Vỹ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

 

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

 

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

                 Hàn Mặc Tử

 

Lời bình: 

Bài thơ được mở đầu với lời trách móc của người con gái. Lời trách ấy có lẽ do một hoàn cảnh gặp gỡ nào trước đó được thi nhân nhớ lại:

                   Sao anh không về chơi thôn Vỹ?

      Câu mở đầu như thế giúp cho ý tưởng kiến thiết bài thơ thôn Vỹ gắn với nỗi nhớ người xưa, được gợi lên trong kỷ niệm:

                Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

               Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

       Nghĩa là, từ hàng cau đến cái nắng mới vào buổi sáng ấy... màu xanh của vườn cây đều là cảnh hiện lên trong hồi tưởng. Thôn Vỹ nói riêng cũng như mỗi làng quê Việt Nam nói chung: Hình ảnh hàng cau thường đọng lại những ấn tượng sâu sắc, nhất là với những người khi đã xa quê. Ta cũng thấy ở trong thơ Nguyễn Bính từng viết:

                Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

      Hàng cau dưới ánh nắng mới vào buổi sớm thì trong mát, thanh thiên lắm! Cảnh quê cô đọng được hoà quyện vào mối tình đầu trong sáng, mơ mộng của thi nhân. Dù mối tình với nàng Hoàng Cúc chỉ đơn phương về phía Hàn Mặc Tử. Tình cảm sâu lắng đã trở thành hoài niệm mãi trong cõi nhớ của ông, bởi thế màu xanh của lá cây trong vườn cũng lung linh mà "xanh như ngọc"...

    Như vậy cảnh nhớ ở ba câu đầu tuy chỉ là hồi tưởng, nhưng lại xuất phát từ cảnh có thực. Sở dĩ tôi nhấn mạnh về chữ "thực", vì chỉ đến câu thứ tư hình ảnh thơ đã có ý nghĩa tượng trưng:

                Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

     "lá trúc" và "chữ điền" thuộc những ngôn từ mỹ học! Hình tượng cây trúc làm tượng trưng trong thơ HMT, ta còn thấy ở trong bài thơ Mùa Xuân Chín:

                Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc

    "trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê, còn "mặt chữ điền": theo cách nói cổ nho của người phương Đông, là ví cho gương mặt nam nhi. Trong bài thơ này, gương mặt chữ điền ấy để biểu tượng cho chính bản thân thi nhân.  Hai chữ "che ngang" kia - Nghĩa là thôn Vỹ với nhà thơ giờ đây chỉ còn ở trong kỷ niệm, mãi mãi phải cách xa... nên đã bị "cắt ngang".

     Ngay bốn câu của khổ thơ đầu, ta đã nhận thấy cấu trúc và tư duy thơ HMT đều được thiết lập theo trình tự suy lý... về nỗi cảnh mà lập thành tứ. Sau đó phát triển sâu hơn ở khổ thơ thứ hai, khi nói đến tình duyên dang dở giữa hai người:

                Gió theo lối gió, mây đường mây...

      Ý là:

                Em theo đường em, anh đường anh

                Duyên phận đôi ta có thế thôi!

      Tả cảnh nhưng chính để nói nỗi đời:

*   Dòng nước buồn thiu (tĩnh), hoa bắp lay (động)...

      Cái (tĩnh) và (động) ấy chỉ để bộc lộ một cõi lòng, tâm trạng cô đơn và buồn. Thi nhân ngồi nhớ người xưa, lòng ông lặng lờ buồn bã như dòng nước hắt hiu, nhưng trái tim vẫn bổi hổi, xôn xao như làn "hoa bắp lay"...

                Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

                Có chở trăng về kịp tối nay?

       Đây là hai câu thơ thần cảm. Hình ảnh thuyền và sông trăng theo cảm xúc ùa vào trong thơ mà bật ra làm cho tình thơ thêm rộng rãi, rung rinh, nỗi thơ càng mênh mang, da diết.

     Xin nói thêm, cảnh thuyền và sông trăng ở đây theo như một số nhà bình luận: Người thì cho đó là cảnh trong một bức ảnh về Huế mà nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân khi đang lâm bệnh phải điều trị ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng cũng có người lại nói rằng nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân tấm ảnh mặc áo dài trắng? Chứ không phải là phiến cảnh "thuyền" và "sông trăng" đó.

      Nếu vậy thì cảnh trong thơ chỉ là cảnh mà thi nhân nhớ lại nơi thôn Vỹ chăng? Cũng chưa thật ngã ngũ về hướng nào...

      Tóm lại cảnh của hai khổ thơ đầu ấy là cảnh thuộc về trí tưởng, dù vào buổi sớm dưới hàng cau hay trong một đêm trăng trên sông nước. Trong bài bình của nhà bình thơ Vũ Quần Phương, đến đây có nhận xét rằng:

   "Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở...", (hay là) "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau...".

     Nhà bình thơ cho rằng: "chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm"...

        Theo tôi, HMT là một thi nhân viết thơ bằng nội tâm theo tư duy thế giới trong, xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy... còn ý tứ thường được diễn tả rất mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng để diễn đạt nỗi tình thơ. Đoạn thơ thứ hai ấy cần phải hiểu sâu sắc bằng thế giới bên trong như đã bình trên, mới thấy cảm xúc về ý tứ của bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ hoàn toàn liên kết chặt chẽ với nhau, từ đoạn thơ đầu tiên cho đến đoạn cuối cùng.  Đấy chính là cốt lõi để tạo ra thi phẩm vô giá của ông. Đây Thôn Vỹ Dạ là một tuyệt tác thi ca! Nếu cho rằng đoạn thơ thứ hai chỉ là để tả cảnh buồn mênh mang... thì sẽ không thấy hết được cái hay và sâu sắc của bài thơ.

    Tôi xin bình sang khổ thứ ba:

              Mơ khách đường xa, khách đường xa

              Áo em trắng quá nhìn không ra

              Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

              Ai biết tình ai có đậm đà? 

    Như đã nói mối tình giữa HMT với nàng Hoàng Cúc chỉ là một mối tình đơn phương về phía thi nhân. Có thể nàng không hay biết về tình yêu của chàng? Hơn nữa trong lễ giáo phong kiến thời ấy, giữa gia đình thi nhân với gia đình nàng còn có một khoảng cách về đẳng cấp xã hội. Hoàng Cúc thuộc gia đình một quan lại, còn HMT là gia đình lớp bình dân. Ông vốn tính lại rụt rè... Yêu tha thiết mà chỉ dám đứng từ xa chiêm ngưỡng người đẹp như trong mộng, rồi thương thầm, nhớ trộm. Thi nhân đã dồn hết tình yêu của mình vào thơ ca. Sáng tác cả một tập "gái quê" để tặng nàng.

     Giờ đây thì cả cái mối tình đơn phương ấy cũng đang trôi vào dĩ vãng. Thi nhân lâm bệnh nặng phải sống cách ly. Sự ngăn trở giữa hai người càng xa hơn. Nên trong bài thơ nói về người yêu mà thi nhân lại dùng chữ "khách" là vì thế! Ông mơ về nàng dẫu tình thì sâu nặng mà vẫn như mơ về một người khách lạ...

    Hình ảnh: Áo em trắng quá.../ - Hẳn  là màu áo trắng  của Hoàng  Cúc thường mặc phải gây ấn tượng trong trí nhớ của HMT hơn các màu áo khác !?  Nhưng màu áo trắng ở đây còn là ảnh ảo, khi thi nhân mơ tưởng người đẹp ở trong trăng...  Màu trăng ấy thường hay thấy trong thơ HMT:

               Người trăng ăn vận toàn trăng cả...

     Còn tại sao "áo em trắng quá" mà lại "nhìn không ra"? Ý là mối tình ấy đã cách biệt, giờ đây khoảng cách giữa hai người xa vời như người khách lạ qua đường. Còn cảnh tượng:

                  Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

       Đó vừa là cảnh thực của nơi ông đang sống và chữa bệnh hiu quạnh, khói sương, heo hút ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng đồng thời cũng để nói lên trong cảnh ngộ của Người về thân phận "mịt mờ nhân ảnh". Tâm trạng Ông đang rơi vào trong vực thẳm trước sự quên lãng của người đời,  lòng càng da diết mà hỏi:

              Ai biết tình ai có đậm đà?

      Tiếng "ai" bộc lộ một tâm trạng  vẫn rất tha thiết của ông:  Liệu nàng còn nhớ đến ta chăng? Cái tâm trạng xa xót ai oán ấy, ông cũng đã từng bộc lộ nhiều lần khác:

              Một mai kia ở bên khe nước ngọc

             Với sao sương, anh nằm chết như trăng

             Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc

             Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!

      Đây  Thôn Vỹ Dạ là một bài thơ được dệt  thành một bức tranh trong mộng, không gian đa sắc, đa chiều đan xen giữa hiện tại và kí ức. Ý, tình  khúc triết, sâu xa. Dù rằng tình thơ được rút trong tập "thơ điên",  nhưng nó không những không phải là thơ điên... mà còn là một tình thơ đằm thắm chứa chan, trái tim của nhà thơ đã thấm đầy huyết lệ!

 

(Trích tập " Phạm Ngọc Thái - Phê bình & tiểu luận thi ca",

Nxb Văn hóa  Thông tin 2013)

No comments: