Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, December 3, 2019

VÀI Ý VỀ CHỮ DÙNG TRONG THƠ (9) - Nguyên Lạc


 
                Nhà thơ Nguyên Lạc


VÀI Ý VỀ CHỮ DÙNG TRONG THƠ (9)
                                                  
Tiếp nối theo loạt bài viết “Vài Ý Về Chữ Dùng Trong Thơ” (1) đã đăng trên các trang trong và ngoài nước [*]  hôm nay tôi sẽ tiếp tục phân tích việc dùng chữ trong thơ qua việc in ấn sai chữ cùng sự sáng to chữ mới. Xin thưa trước, đây ch là ngh ch quan.

IN ẤN, HÁT SAI CHỮ TRONG NHẠC

I. TRONG NHC
Trước hết tôi bàn về việc in ấn sai - do bất cứ l do gì - hay hát sai một vài chữ s nh hưởng đến câu nhc. nh hưởng này có thể xấu hoặc tốt tùy trường hợp, nhưng đa số là thay đổi ngha ca câu, ca tác gi muốn nói. Sự thay đổi trong lời nhc cng giống như trong lời thơ vì những lời nhc thường là những lời thơ.

1. Sự thay đổi tình cờ khiến câu nhc lung linh hơn

Chính nhc s Phạm Duy đã từng thừa nhận những cm từ Thái Thanh "lỡ miệng" hát sai đôi khi trở nên "duyên lạ".

a. Như nhạc phẩm "Cho nhau" Phạm Duy viết:
  Cho nhau ngòi bút cùn trơ ...
  Cho nhau, cho những câu thơ tàn mùa
  Cho nốt đêm mơ về già

 Thái Thanh hát:

  Cho nhau ngòi bút còn lưa
  ...
  Cho nối đêm mơ về già

     "Lưa" là một chữ cổ, có nghĩa là còn sót lại, nhưng mang một âm thanh u hoài, luyến lưu, tiếc nuối. Ca dao Bình Trị Thiên có câu:

  Trăm năm dù lỗi hẹn hò
  Cây đa bến Cộ con đò vắng đưa
  Cây đa bến Cộ còn lưa
  Con đò đã thác năm xưa tê rồi.

     Chính Phạm Duy cũng có lần sử dụng chữ "lưa" trong bài Mộng Du: "Ta theo đường mộng còn lưa...".  Dĩ nhiên "ngòi bút cùn trơ" chính xác hơn, nhưng không thi vị bằng "ngòi bút còn lưa".

     "Cho nốt đêm mơ về già", như Phạm Duy đã viết, là cho phứt đi, cho đi cho xong. Thái Thanh thay chữ "nốt" bằng chữ "nối", tình tứ và thủy chung hơn: những giấc mơ về già chỉ là tiếp nối những giấc mơ tuổi xuân mà anh không tặng được em vì gặp em quá muộn; cho nhau chỉ còn trái đắng cuối mùa, nhựa sống trong thân cây chỉ còn dâng được cho em dư vị chua chát và cay đắng.

     Phạm Duy viết:

  Cho nhau thù oán hờn ghen ...
  Cho nhau cho cõi âm ty một miền

     Thái Thanh hát:

  Cho nhau cho nỗi âm ty một miền

     Chữ "nỗi" vô tình buông ra mà hay hơn chữ "cõi", vì "cõi" chỉ là một miền, một không gian, một ý niệm hiện hữu, có vẻ bao la nhưng thực ra hữu hạn. Chữ "nỗi" vô hình, nhỏ bé nhưng vô hạn, đi sâu vào tâm linh con người: - Với tuổi già nỗi chết nằm trong cuộc sống. Cho em nỗi chết là cho tất cả những niềm hoang mang, khắc khoải, đau thương còn lại, nghĩa là chút tình yêu còn lưa trong từng nhịp đập yếu ớt của trái tim đã cạn dần cạn mòn hết những mùa xuân. (Viết theo Thụy Khuê - Thái Thanh, tiếng hát lên trời)

2. Sự thay đổi làm câu nhc dở hơn, đôi khi mất ngha

  a.  Trong câu nhc này có thể xem như là một trong những câu hay nhất của Phạm Duy và tân nhạc Việt Nam:

  Về miền Trung còn chờ mong núi về đồng xanh
  Một chiều nao đốt lửa rực đô thành

     Thái Thanh hát "một chiều mai đốt lửa..." là đánh vỡ một viên ngọc quý. Chữ "nao" mơ hồ, phiếm định, chỉ là giấc mơ ánh sáng, màu sắc của nghệ sĩ -mà Nguyễn Tuân gọi là cơn hỏa mộng- nó chỉ là hình ảnh nghệ thuật, chứ Phạm Duy mong chi ngày "đốt lửa rực đô thành", đốt kinh thành Huế?
(Viết theo Thụy Khuê - Thái Thanh, tiếng hát lên trời)

b. Bài hát nổi tiếng nhất của Trịnh Công Sơn là Diễm Xưa bị ca sĩ hát sai lời - do in ấn sai chăng? - ở câu hát:
Nhỡ mai trong cơn đau vùi
Thông thường, từ thường dùng là “lỡ mai, nhưng ngôn ngữ ngày xưa, người ta cũng hay dùng từ “nhỡ” thay cho từ “lỡ”. Trong câu hát này, nhiều ca sĩ lại hát là: NHỚ MÃI trong cơn đau vùi… làm cho câu hát bị sai ý nghĩa và “tầm thường hóa” một câu hát trách móc rất hay và nhẹ nhàng của tác giả: Chiều này còn mưa sao em không lại? Nhỡ mai trong cơn đau vùi…

c. Trong bài hát Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè - Tác giả: Bắc Sơn,  câu hay bị nhiều ca sĩ hát sai
Đôi mắt cậu buồn hiu phiêu lưu rong chơi
Những ngày đầu chừa ba vá miểng vùa
Nhiều người không biết “miểng vùa” (hay còn gọi là mủng vùa, muỗng vùa) là gì, nên đã hát thành “ba vá miếng dừa”.
Có 4 câu thơ về tóc miểng vùa như sau:
Ngày xưa hớt tóc miểng vùa
Ngày xưa mẹ bắt đeo bùa cầu ông
Đôi ta cùng học vỡ lòng
Dắt tay qua những cánh đồng lúa xanh
Mủng vùa (miểng vùa, cô Hoàng Oanh hát giọng Nam Bộ thành “miểng dùa”) là một cái gáo dừa khô chẻ ra làm đôi để làm gáo múc nước, đựng cơm. Trẻ em ngày xưa chừa tóc ba vá, nhìn như một cái mủng vùa úp ngược trên đầu.
Viết/in/ca sai "miểng vùa" thành "miếng dừa”làm câu nhc mất ngha.

d. Bài hát Xóm Đêm của nhạc sĩ Phạm Đình Chương sáng tác trong thập niên 1950 có câu: “qua phên vênh có hai mái đầuNếu là ca sĩ trẻ thì ít người biết “phên” là gì nên tý đổi chữ trong câu hát này thành “chênh vênh”.
“Phên” là tấm che được đan bằng tre của những nhà nghèo thời những năm 1950 ở Sài Gòn. Trong con ngõ nhỏ, nhiều vách nhà được che bằng tấm phên, lâu ngày mưa nắng nó bị cong vênh lên tạo thành một khe hở, nhạc sĩ nhìn qua khe phên vênh ấy, thấy có hai mái đầu chụm lại dưới ánh đèn “hắt hiu vàng ánh điện câu”.
 (Viết theo Người Đưa Tin)

IN ẤN SAI, CHỈNH SỬA CHỮ TRONG THƠ

Như đ biết ở trên, từ sự tình cờ do in ấn, hát sai nguyên bn mà câu nhc "lung linh" hơn. Chuyện này cng thường xy ra ở thơ. Có khi vì in ấn, có khi vì thanh điệu tác gi bài thơ bắt buộc phi sửa đổi vài chữ cho hợp vần, thanh điệu nhưng ngha chữ ấy vẫn không thay đổi. Đó là chuyện "chẳng đặng đừng".  Tuy nhiên, vì không r nguyên do,  có một số thi s "hậu bối" cho rằng chữ ấy là "đầy sáng to", độc đáo nên h vội vàng "mượn" lấy, rồi cố tình gán ghép vào bất k câu thơ nào ca mình để chứng t ta đây "khác người", "cao siêu" mặc dù nơi v trí gán ghép đó không đòi hi phi chnh sửa chữ  vì vần, thanh điệu. Rồi các nhà bình luận "phe ta" vội vàng khen thưởng "gà nhà" ngất trời, mà quên rằng người thường nói: "Khen, tâng bốc quá lố nhiều khi vô tình làm hi người được khen".

Bây giờ ta thử xét vài chữ được khen nêu trên:

I. THẦM TH
Thử đc đnh ngha các chữ có liên quan đến cm chữ thầm th:
. Thầm thì như Thì thầm: nói thầm với nhau, không để người ngoài nghe thấy
"nói chuyện thì thầm"
Đồng nghĩa: thầm thào, thầm thì, thầm thĩ
. Thầm thĩ (Ít dùng) như thầm thì
"những lời thầm thĩ yêu thương"
(Stratu)
Theo tôi: Ít dùng có nghĩa là ít được chấp nhận và sẽ mai một đi.
"Thầm thĩ " đồng nghĩa với từ thông dụng, ai cũng hiểu: "thầm thì", sao không dùng cụm từ "thầm thì" thông dng này khi không có gì bắt buộc mà phi chnh sửa?
Theo tôi sự chnh sửa có thể giải thích bằng những lý do sau:

a.  Vì vần, thanh điệu
Thí d:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây...
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
(Mùa Xuân Chín- Hàn Mặc Tử)
Thầm th ở câu thơ được chnh sửa từ cm chữ "thầm thì" vì thanh điệu. Ở v trí 2 chữ này, câu thơ này cần thanh trắc cho trầm bổng nên tác gi chnh THÌ thành TH, vì THÌ là thanh bằng. Ngha ca câu thơ không thay đối, vì thầm thì và thầm th giống nhau như đnh ngha trên. Theo ch quan tôi, đây là chuyện "chẳng đặng đừng", nếu không có nó tác gi s không cần chnh sửa chữ.
Câu thơ sau đây cùng giống vậy, sửa chữ vì thanh điệu bắt buộc - (Xin được dắu tên tác giả)̉
“Đây tiếng nói Việt Nam! Đây Hà Nội"
Xa muôn trùng vẫn thầm thĩ bên tai! - ABC

Thẩn thơ/Tiếng mơ thầm thĩ
“Người ơi.../Người ơi...”/ Dan díu lời thề - XXZ

b. Vì muốn khác người
Nếu v trí chữ trong câu thơ không đòi hi vần, thanh điệu, chuyện "chẳng đặng đừng" không cần đề cập thì nên để nguyên chữ bình d, cùng ngha vì ai cng hiếu, không cần phi chnh sửa. Nếu cố tình sửa chữ thì đó r ràng là muốn "to dáng".
Thử xét 2 câu thơ sau:
Thầm thì tiếng ai đêm đó
Nhớ mi nghìn năm không quên
Theo tôi, không cần phi đổi "thầm thi" ra "thầm th" vì v trí này không đòi hi vần, thanh điệu và c 2 cùng ngha như đ biết.
Mặt khác, thầm thì ngha ai cng hiểu; thầm thì trong đêm thì lời êm du, riêng 2 người nghe. Cm chữ thầm th có thể ít người hiểu ngha; trong đêm mà ging thanh sắc s không êm đềm và nhiều người nghe được, không riêng tư.

Như đ xét trên, ta thấy hai chữ "thầm th " có gì "ghê gớm" hơn thầm thì/ thì thầm đâu? C hai cùng ngha.

II. VĨNH TẬN

   1. Vài hàng về ghép cm chữ
Việt Nam ngày nay hình như xính to chữ mới bằng cách ghép 2 cm chữ.
Thí d
- Kích cầu=  kích thích + nhu cầu,. Chênh chao  = Chênh vênh + chao đảo vân vân...

        2. Cm chữ Vnh tận

     a. Vnh tận do ghép 2 thành tố: Vnh và Tận
Vĩnh : Lâu dài, mãi mãi như vĩnh viễn, vĩnh hằng ...
Tận :
- Hết không còn gì. Như: Năm cùng tháng tận. Tận tâm tận lực: hết sức hết lòng
- Cùng cực, không tới thêm được nữa, tới cùng, cuối cùng
- Tự tận: Chết
(Từ điển Nguyễn Quốc Hùng)

 b. Tận cùng: Đồng nghĩa với cùng tận
Tính t 
- ở chỗ cuối cùng, đến đấy là hết giới hạn, là kết thúc
- ở vị trí tận cùng
Danh t 
- chỗ đến đấy là hết, không còn gì nữa
Đại dương mênh mông, không biết đâu là tận cùng

c.  Ngha ca cm chữ Vnh tận:
Nếu ghép ngha hai chữ trên, ngha ca vnh tận là tận cùng mi mi, tận cùng vnh viễn, sự tận cùng vĩnh cửu.
Ch có sự chết mới tận cùng như vậy. Vậy vnh tận là lằn ranh, là cái bờ phân chia giữa sống và chết: Vnh tận là một giới hn không gian.
- Vnh tận cng có thể được dùng trong giới hn thời gian, tuy nhiên nhiều khi cng không chnh lắm. Thí d : Ít ai nói thời gian vnh tận vì thời gian không bao giờ tận cùng vnh viễn.
- Vnh tận cng có thể dùng trong cm xúc: Cm xúc vnh tận = cm xúc kết thúc vình viễn. Và cng như trên, ch có chết mới kết thúc vnh viễn cm xúc.
- Trong Phật giáo cng thường dùng cm chữ vnh tận: Vĩnh tận - kṣaya (tiếng Phn) : có ngha là dứt sch hết.
Thí d:
Một trong 4 đức Vô súy của Phật là Lậu vĩnh tận vô uý (Phạm sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya): Còn gọi là Lậu tận vô sở uý. Phật đã dứt sạch hết tất cả mọi phiền não, không có sự sợ hãi từ các nạn bên ngoài.
Khi dứt sch hết phiền no, sợ hi thì giác ngộ; chưa dứt sch hết - còn bên đây bờ, lằn ranh vnh tận thì còn u mê.
   3. Thử xét chữ "vnh tận" trong các câu thơ này, câu thơ đã được một nhà bình thơ khen "ngấ̉t trời". Đó là cái quyền của nhà bình thơ, tôi trân trọng; ở đây tôi chỉ đưa ra cảm quan riêng của mình.
Đây là các câu thơ, xin được dấu tên tác giả.

“Cảm ơn người
Bên đây bờ vĩnh tận
Những tàn phai
Ta chưa kịp cựa mình”
YYZ

Trước khi phân tích các câu thơ, xin độc gi lưu tâm đến này:
- Trong các bài trước tôi có dẫn lời ca các nhà bình thơ tiền bối: "Trong văn, nhất là thơ nếu b được chữ nào mà ngha ca câu văn, thơ không thay đối thì ta nên b". Tôi s áp dng này vào những nhận xét lần lượt sau:

     a. "Bên đây bờ vĩnh tận"

- Vnh tận, như bàn ở trên là lằn ranh, ranh giới, là bờ phân chia sống chết: Bên đây là sống, bên kia là chết. Vnh tận đ là ranh, bờ rồi nên viết "bờ vnh tận" hình như là dư chữ "bờ". Viết "Bên đây vnh tận" ta cng hiểu là bên đăy bờ sống, còn đang sống. Ở đây vnh tận dùng theo ngha không gian.
- Nếu chỉ riêng câu này thôi thì câu thơ đầy Thiền v, đầy triết ly:́ “Vĩnh tận” dùng ở đây rất tuyệt. Vĩnh tận là một cụm từ hay về mặt ngữ âm, tuy nhiên hơi khó hiểu về ngữ nghĩa.

 Nhưng tác giả không dừng ở đây, tiếp theo là những câu khác.

     b. "Bên đây bờ vĩnh tận/ Những tàn phai/Ta chưa kịp cựa mình"
 Nếu viết vài câu thơ không ngắt dòng như thế này: "Bên đây bờ vĩnh tận những tàn phai /Ta chưa kịp cựa mình". Cng giống trên, vnh tận là bờ/ lằn ranh phân chia 2 bên: Bên đây  là nơi địa vực sinh tồn với những tàn phai của nhân sinh, của cuộc sống; bên kia là hư  không, là cõi chết.
- "Bên đây bờ vĩnh tận những tàn phai": Tác giả khi viết câu này đang ở đâu. Nếu đã ở trong vùng bên kia lằn ranh, vùng hư không thì tác giả  đã tiêu vong rồi, lấy gì mà viết?  Vậy tác giả phải ở nơi địa vực sinh tồn cùng với những tàn phai. Ngay cả cụm chữ "những tàn phai" cũng nói rõ sự nuối tiếc cái rực rỡ, huy hoàng.
- "Ta chưa kịp cựa mình" : Diển tạ̉ nuối tiếc. Nuối tiếc cái rực rỡ, ta đ/ đang tàn phai (già?) dù ta chưa kp làm gì c (cựa mình). Đây là điều đương nhiên, ai cng biết, vì dù ta có làm gì đi nữa thì thời gian vẫn "qua song", sự tàn phai/ già vẫn đến.

     c. "Cảm ơn người"
Nếu ở bên kia ranh giới, trong vùng hư không, thì làm sao nhắn gởi lời cảm ơn?.
Vậy khả năng duy nhấ̉t là nói cảm ơn  với cuộc đời đang sống. Nuối tiếc cái rực rỡ, huy hoàng khóc những tàn phai, muốn vui không được vui, muốn an lành không song.
Lời cảm ơn ở đầu khổ thơ trở nên gượng ép, vì muốn cảm ơn thì phải cm ơn cuộc đời, chứ không phi người: Cảm ơn  cuộc đời đã cho ta sinh tồn, dù nuối tiếc - "chưa kịp cựa mình". Theo tôi, câu đầu khố này chỉ cần viết "Cám ơn" là đủ, bỏ chữ người.

     d. Nhận xét:
Xin nói r trước để tránh hiểu lầm: Tôi đang bàn luận riêng cụm chữ  "vĩnh tận" trong các câu thơ ở văn bn ghi trên.
 - Trong cm xúc, theo tôi chữ "tận cùng/ cùng tận" gin d ai cng hiểu, không cần tra từ điển; nó hay gấp nhiều lần so với chữ khó hiểu "vnh tận". Ti sao?
 Như ta đ biết, "tiếng nói ca một dân tộc là phương tiện dùng để diển t tình tự riêng ca dân tộc đó". Thí du ở đâỵ:  Tận cùng/cùng tận  nỗi nhớ, tận cùng/ cùng tận nỗi thương, tận cùng/ cùng tận những tàn phai, tận cùng cm xúc - toàn thuần Việt - so sánh với vnh tận nỗi nhớ, vnh tận nỗi thương, vnh tận những tàn phai, vnh tận cm xúc -  ghép tiếng Hán với tiếng thuần Việt -  ta thấy cm chữ  thuần Việt hay hơn nhiều lần vì diển t đầy đ tình tự riêng ca dân tộc Viêt như đ nói trên. Cm chữ  ghép không có được điều này. Vnh tận là cm chữ "trung tính", còn tận cùng/ cùng tận là cm chữầy cm xúc".

- Nếu 2 chữ vnh tận được dùng trong thơ Thiền, thơ về đo thì tuyệt; còn dùng với thơ tình tự đời thường thì tôi e là hơi "quá tay", hơi "thậm ngôn".
Các câu thơ tình tự trên nếu viết li gn gàng, gin d, ai cng hiểu như vầy: “Cảm ơn/ Bên đây cùng tận tàn phai/ Ta chưa kịp cựa mình chắc s dễ dàng đánh động cm xúc ngươi hơn.

- Theo tôi, nếu cố tình dùng "cm chữ gán ghép", ngha mù mờ trong khi trong tiếng thuần Việt đ có sẵn những cm chữ cùng ngha, gin d, r ràng ai cng hiếu ch là muốn t ra mình "cao siêu" mà thôi.

   4. Các bài trước tôi có nói:  Trong thơ, dùng chữ bình thường mà to được ngha bất thường hay gắp trăm lần dùng chữ bất thường, "cao siêu" khó hiểu mà ngha mù mờ hay sáo rỗng.
Thí d:
Còn hai con mắt khóc người một con - (Bùi Giáng)
hay gấp trăm lần
Hữu thường hai mắt vô thường một con - (NL)
Câu trên dùng chữ bình thường, ai cng hiểu nhưng ngha nó thm đến no lòng; còn câu dưới toàn chữ "cao siêu", muốn hiểu phi tra từ điển hoặc dành riêng cho "thiểu số tót vời" nhưng ngha thì mù mờ, sáo rỗng, hoặc dành riêng cho bậc "đt đo".

LỜI KẾT

Xin được ghi ra đây trích đon tôi tâm đắc từ nhà bình luận Lê Hữu để xem như lời kết:
-[ Chữ nghĩa cần có sự phát minh, sáng tạo hơn là lặp lại rập khuôn người đi trước. Những vô thường, vô vi, phù vân, phù ảo, hư ảo, hư không, tà huy, miên trườngmà người làm thơ hiểu nghìa r ràng, cố tình đưa vào cho bằng được trong thơ mình thường có một vẻ gì khập khiễng, gượng gạo như một kiểu tạo dáng kém tự nhiên, đôi lúc khiến câu thơ tối tăm, khó hiểu. Thường, thơ khó hiểu thì khó hay; thơ tạo dáng thì khó tạo được cảm xúc ...][hết trích]
Tôi ngh thêm:
- Sáng tạo chứ không phải "đố chữ", sáng tạo phải được đa số chấp thuận. Mà muốn chấp thuận, chấp nhận thì h phi hiểu. Không hiểu rõ hoa sao biết nó đẹp xấu? Không biết rõ người con gái sao ta yêu thương được?
- VN chưa có Hàn Lâm Viện, các chữ "sáng to"phi được sự đồng thuận của đa số. nếu không  thì chúng s mai một thôi.
- Thơ viết ra mà người đc không cm, không hiếu là lỗi ở tác gi.
- Điều gin d nhắt là điều khó làm nhất.
-  Chưa chắc tất cả mọi điều ca người "đi trước" "người có tiếng" đưa ra là đúng, ngoi trừ các ông Thánh.

Nguyên Lc
.................
[*] Vài Ý Về Chữ Dùng Trong Thơ

No comments: