Tác giả Hoàng Đằng
GIÁO
SĨ ĐẮC LỘ VÀ CHỮ QUỐC NGỮ
Tạp văn của Hoàng Đằng
Có người hỏi tôi:
“Vì sao sáng tạo chữ Quốc Ngữ là công trình của nhiều người, mà bây giờ khi nói
đến chữ Quốc Ngữ ai cũng chỉ nghĩ ngay đến giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ)?”
Trước khi tìm hiểu và suy luận để có câu trả lời cho
câu hỏi trên, tôi xin giải thích mấy từ “Chữ
Quốc Ngữ”.
“Quốc”
là “nước”, “ngữ” là “tiếng nói”; “quốc ngữ” là tiếng nói của người trong
nước. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân”
đều nói thứ tiếng ấy, nên thứ tiếng ấy được gọi là quốc ngữ. Người xưa gọi là “quốc âm”
(Quốc
Âm Thi Tập, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị…)
Chữ ghi lại tiếng nói ấy là “chữ Quốc Ngữ”, “chữ Quốc
Âm”. Còn Quốc Gia Văn Tự thì khác, Quốc Gia Văn Tự là thức chữ (văn tự) được
dùng trong việc công, trong chính quyền; dân trình bày gì lên chính quyền,
chính quyền phổ biến gì xuống dân bằng văn bản thì văn bản phải được viết bằng
thứ chữ ấy.
Vì vậy, chữ Hán, dù không thể hiện tiếng nói người Việt,
vẫn đã được xem là “Quốc Gia Văn Tự”
của nước ta trong thời gian dài của lịch sử, trong khi chữ Nôm đã có, ít ra từ
đời Trần (thế kỷ XIII) và chữ Quốc Ngữ đã có từ thế kỷ XVII, thế mà chữ Nôm
không “phổ cập” đóng vai trò Quốc Gia
Văn Tự và chữ Quốc Ngữ cũng mới phổ cập đóng vai trò Quốc Gia Văn Tự từ năm 1945
– năm Việt Nam có nền độc lập sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, dù kể từ
độc lập do đế quốc Nhật giao hay từ độc lập do giành được qua Cách Mạng tháng
8.
Vì nghĩ như vậy, tôi đã nói Việt Nam có đến 2 chữ quốc
ngữ: chữ quốc ngữ hệ chữ Hán, đó là chữ Nôm và chữ quốc ngữ hệ chữ La Tinh, đó
là chữ Quốc Ngữ đang dùng hiện nay.
Trong bài viết này, chữ Quốc Ngữ nói đến là chữ quốc
ngữ hệ chữ La Tinh.
Đúng là việc sáng chế ra Chữ Quốc Ngữ đã được làm trước
khi giáo sĩ Đắc Lộ (1591 – 1660) đến nước ta năm 1624 và do nhiều người làm.
Giáo sĩ Đắc Lộ chỉ là học trò học tiếng Việt của giáo
sĩ Francisco de Pina (1585 – 1625) - người được lịch sử cho biết rất thông thạo
tiếng Việt. Và còn nhiều, nhiều giáo sĩ nữa cũng thông thạo tiếng Việt.
Vừa rồi, chính quyền thành phố Đà Nẵng đề xuất tên hai
giáo sĩ Tây Phương Francisco De Pina và Alexandre De Rhodes để đặt tên cho hai
tuyến đường trong thành phố do trân trọng công lao của hai Ngài trong sáng tạo
chữ Quốc Ngữ. Nhờ thế, thêm nhiều người Việt biết đến giáo sĩ Francisco De
Pina.
Sử sách cho biết giáo sĩ Francisco De Pina – người Bồ
Đào Nha - đến nước ta năm 1617 trước Đắc
Lộ; Ngài thông thạo tiếng Việt, giảng đạo bằng tiếng Việt, mở trường và viết
tài liệu dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ. Ngoài ra,
Ngài truyền giáo ôn hoà, được lòng chính quyền, nhờ vậy, Ngài mới có thể thi
hành mục vụ bên cạnh chính quyền sở tại ngay trong dinh trấn Quảng Nam, còn gọi
là dinh trấn Thanh Chiêm vì đặt tại làng Thanh Chiêm, xã Điện Phương, thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Dinh trấn Quảng Nam là trung tâm chính trị, quân sự, kinh
tế và văn hoá xứ Đàng Trong, về tầm quan trọng, chỉ xếp sau Phú Xuân (Huế).
Rủi là Francisco De Pina mất sớm (1625) lúc mới 40 tuổi
do đuối nước ở biển Đà Nẵng khi cố cứu người trên một thuyền bị đắm.
Việc mất sớm của Francisco De Pina là một trong những
lý do khiến giáo sĩ Đắc Lộ là người được biết đến nhiều hơn, được tôn sùng hơn
từ trước tới nay.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lý do nữa.
Dựa theo một số tài liệu đã đọc, tôi suy luận như thế
này:
1- Đầu thế kỷ XVII, để dễ dàng việc truyền giáo, nhiều
nhà truyền giáo phương Tây đã học tiếng Việt thành thạo, sáng chế ra chữ Quốc
Ngữ, mở trường dạy chữ Quốc Ngữ và viết tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ để phổ biến.
Tuy nhiên, vì điều kiện khó khăn, việc lưu trữ không tốt;
ngày nay, các tác phẩm ấy phần lớn không còn.
Trong các giáo sĩ Tây phương viết tài liệu, sách, từ
điển bằng chữ Quốc Ngữ, có thể kể:
- Giáo sĩ Francisco De Pina đã có soạn tài liệu giảng
dạy: “Phương Pháp Latinh hoá tiếng Việt”, “Ngữ Pháp tiếng Việt”, đã có dịch từ
chữ Latinh sang chữ Quốc Ngữ một số kinh: “Kinh Lạy Cha”, “Kinh Kính Mừng”,
“Kinh Tin Kính”, “Kinh Sáng Danh” …,
- Giáo sĩ Gaspar De Amaral đã có soạn từ điển Việt – Bồ
…
- Giáo sĩ Antonio De Barbosa đã có soạn từ điển Bồ -
Việt …
- Giáo sĩ Đắc Lộ đã có soạn từ điển Việt – Bồ - La và
đã viết “Phép Giảng 8 Ngày” …
May mắn chỉ dành cho giáo sĩ Đắc Lộ! Tác phẩm của Ngài
vẫn còn và được các nhà nghiên cứu còn dùng, thành thử, tên Ngài nhiều người biết.
2- Vào thế kỷ XV, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha dùng tàu
thuyền đi khám phá các vùng đất mới trên trái đất. Toà Thánh muốn kết hợp việc
truyền giáo vào việc thám hiểm, giáo hoàng Alexandre VI ký hiệp ước Tordesillas
năm 1494 giao cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha công việc truyền giao ở những vùng
đất đã khám phá và sẽ khám phá, trong đó, Bồ Đào Nha trách nhiệm việc truyền
giáo ở Á Châu, có trách nhiệm chuyên chở miễn phí các nhà truyền giáo, cấp
phương tiện xây nhà thờ, nhà ở …, nhưng Toà Thánh và các nhà truyền giáo phải lệ
thuộc công việc vào vua Tây Ban Nha và vua Bồ Đào Nha, muốn phổ biến quyết định
gì của Toà Thánh cũng phải được vua Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha chấp thuận.
Vua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sử dụng các giáo sĩ Dòng
Tên trong việc truyền giáo. Dòng Tên là Dòng Chúa Giêsu (Société des Jésuites),
có lẽ được nói gọn lại như vậy vì tục cữ tên của người Việt. Dòng Tên được
thành lập ở Paris năm 1535, ban đầu hoạt động trong lãnh vực tu viện và truyền
giáo, từ năm 1547, tập trung sang lãnh vực giáo dục.
Trước Dòng Tên, đi theo tàu thuyền của các nhà hàng hải
Bồ Đào Nha, nhiều giáo sĩ đã đến nước ta rao giảng Tin Mừng, nhưng do khác biệt
quá lớn về ngôn ngữ, về phong tục, tập quán, về tín ngưỡng với dân bản địa,
công việc truyền giáo không thành công.
Qua thế kỷ XVII, các giáo sĩ Dòng Tên đến; với tinh thần
chịu khó, học ngôn ngữ, nghiên cứu phong tục tập quán, họ đã thành công thu hút
được nhiều người theo đạo, trong đó, có những người trong giới “quý tộc”.
Dù là giáo sĩ thuộc Dòng Tên Bồ Đào Nha, Alexandre De
Rhodes (Đắc Lộ) là người vùng Avignon – lãnh địa của nhiều đời Giáo Hoàng (sáp
nhập vào Pháp từ 1791); có lẽ nhờ thế, Alexandre De Rhodes có uy tín hơn các
giáo sĩ khác dưới mắt Toà Thánh và, với uy tín đó, tên tuổi Ngài lan toả đến giới
Ki Tô giáo Việt Nam.
3- Tình trạng lệ thuộc công việc của Toà Thánh vào vua
Bồ Đào Nha như trình bày ở trên, càng về sau càng làm cho Toà Thánh và các nhà
truyền giáo không muốn; vì vậy, Alexandre De Rhodes, với uy tín của mình, tìm
chỗ dựa ở nước Pháp; Ngài thúc đẩy thành lập Hội Thừa Sai Paris (Société des
Missions Étrangères de Paris) năm 1653. Hội Thừa Sai Paris sau này thay các
giáo sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha đóng vai chủ chốt trong việc truyền giáo vào Việt
Nam, giai đoạn đầu một mình, giai đoạn sau đi cùng với đoàn quân xâm lược Pháp
đánh chiếm nước ta.
Đắc Lộ là ông tổ của Hội Thừa Sai Paris; cho nên khi
nói đến chữ Quốc Ngữ - một cộng cụ truyền giáo hiệu quả, tên tuổi Đắc Lộ được
nhớ ngay và được nhắc đến, ban đầu, từ nhà thờ, sau lan toả ra toàn xã hội.
Việc truyền đạo Ki Tô ra khắp thế giới, buổi đầu, luôn
gặp khó khăn; nhiều nơi và nhiều lần, máu đã đổ. Chuyện đó ở Việt Nam cũng
không tránh khỏi.
Nghe bài hát “Biển
Hát Chiều Nay”, tôi tự nhiên tâm đắc với câu: “Vùi sâu dưới đáy những gì đau thương!” Lịch sử phải biết, biết
đúng sự thật chừng nào hay chừng ấy, biết để “ôn cố nhi tri tân”; nhưng dùng lịch sử để khêu lại vết thương giữa
lòng dân tộc thì xin đừng! Hãy bắt chước cách viết sử của cụ Trần Trọng Kim
(1883 - 1953) trong “Việt Nam Sử Lược”,
có phê phán nhưng lời lẽ phê phán luôn ôn tồn.
Ngày xưa, ở nước ta, giữa “lương” và “giáo”, đã có
nhiều chuyện không hay do hiểu lầm, do thế lực không tốt xúi giục.
“Vết
thương” ấy trên thân thể dân tộc đã lành ở trong dân chúng,
nhưng vẫn còn rỉ máu trong giới “trí thức”.
Buồn! “Trí thức” không đóng đúng vai
trò của mình là hướng dẫn quần chúng đi vào con đường Chân Thiện Mỹ, không cổ
xuý đoàn kết mà khuyến khích chia rẽ.
Hãy xem trên thế giới! Nước nào biết xoá bỏ hận thù
trong quá khứ thì giàu mạnh và ngược lại.
Việc dùng tên Alexandre De Rhodes để đặt tên đường đã
được làm từ lâu ở Sài Gòn, vậy mà chưa nghe ai chống đối. Ở Sài Gòn, người ta đặt
tên đường rất có ý tứ. Hai bên công viên 30/4, bên này là đường Hàn Thuyên (người
có công với chữ Nôm), thì bên kia là đường Alexandre De Rhodes (người có công với
chữ Quốc Ngữ).
Giá như chính quyền Đà Nẵng không biết chi về lịch sử
hết, thì không nghĩ ra chuyện muốn dùng tên 2 giáo sĩ đặt tên đường và không có
chuyện cãi vã “nên” hay “không nên” rồi.
Trong cãi vã, đã có những ngôn từ xúc phạm đến người
đã mất, vu khống cho người đã mất những ý nghĩ và hành động mà họ không có.
Tội chưa!
Hoàng Đằng
03/12/2019 (08/11/Kỷ Hợi)
No comments:
Post a Comment