Hàn San Tự
và Hàn San Tử
(Phiếm luận)
CHU VƯƠNG MIỆN
Nhiều năm cho tới bây giờ Hàn San Tự (Chùa Hàn San) và Hàn
San Tử (cao tăng thi nhân Hàn San) vẫn còn có nhiều người lẫn lộn. Ngay Lê
Nguyên Lưu người soạn ra cuốn Ðường Thi dầy trên 2000 trang cũng vẫn lẫn lộn và
nhiều người dịch thơ Ðường vô ý một chút là lẫn lộn ngay. Ngay chữ Hàn San Tự thường được dịch là (chùa trên núi lạnh) bởi từ khi có cao tăng thi nhân Hàn San
và dân chúng vì ngưỡng mộ tài đức của ngài, nên khi ngài viên tịch thì mang tên
ngài đăt cho tên một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô Tô Châu (Cô Tô) là Hàn San Tự.
Sau đây chúng tôi trích dẫn một ít tài liệu trong các sách
có liên quan đến Hàn San.
1. Hàn San Tử là thi nhân thời danh thời Trung Ðường và cũng
là vị tăng lữ, sống vào thời Trinh Quan thường được gọi là (Quốc Thanh tam ẩn)
ông cư trú ở núi Hàn Nhai, huyện Ðường Hưng, Thiên Thai (nay là Thiên Thai
Chiết Giang) thường đến chùa Quốc Thanh thăm bạn là thi tăng Thập Ðắc.
(Trích Từ Ðiển văn học Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan trang
135.)
2. Hàn San tện một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Cô Tô
do câu Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự.
3. Hàn San hiệu của vị cao tăng đời nhà Ðường ẩn tu trong một
hang núi có tuyết lạnh (tức là văn thù bồ tát).
(Trích Thành Ngữ điển tích Danh Nhân từ điển, trang 402 của
Trịnh Văn Thanh, cuốn 1.)
4. Hàn Sơn hay Hàn San tên ngôi chùa ở Cô Tô phía Tây Phong
Kiều huyện Ngô, chùa có tên ấy vì đời Ðường là nơi cư trú của hai nhà sư Hàn
San và Thập Ðắc, nay vẫn còn, chùa thấp nhỏ bình thường. Sau vườn có gác
chuông. Gần đây trong chùa dựng tấm bia khắc bài thơ (Phong Kiều Dạ Bạc) của thi
nhân Trương Kế do Khang Hữu Vi đời Thanh viết, chữ to ba bốn tấc.
(Trich Ðường Thi tuyển dịch của Lê Nguyên Lưu, trang 1679.)
5. Hàn San Tự, theo tương truyền, khi chùa mới lập có hai vị
cao tăng mồ côi tu tại chùa tên là Hàn San và Thập Ðắc, hai người rất thương
yêu nhau như anh em ruột và dân chúng lấy tên một trong hai vị sư này để đặt
tên ngôi chùa có từ thời vua Ðường Huyền Tôn trước năm 756 rất xa.
(Ký sự du lịch Trung Quốc, trang 348, Trịnh Hảo Tâm.)
Thực tế chùa Hàn San được xây từ năm 502, tên cũ là Diệu Lợi
Phổ Minh Tháp Viện, sau đó đến nhà Ðường được gọi là Hàn San Tự, đến thởi Bắc
Tống Thái Bình Hưng Quốc (976-984), Tiết Ðộ sứ Trung Ngôn Tôn Thừa Hữu xây Phật
Tháp bẩy tầng. Đời vua Tống nhân Tôn (1056-1063), chùa được trùng tu đẹp hơn. Ðến
triều nhà Thanh, đời vua Hàm Phong năm thứ 10 (1860), chùa bị binh lửa bỏ điêu
tàn trong một khoảng thời gian khá dài, mãi đến năm 1910 mới được tu sửa lại hơn
xưa, và có tên Hàn San Tự trở lại.
Hàn San Tự (chùa) cách trung tâm Tô Châu chừng 5 cây số (ở
ngay Cô Tô) kinh đô cũ của nước Ngô (Phù Sai) tọa lạc bên con kinh đào hẹp và
có một cây cầu đá dốc cao bắc ngang trước chùa cây cầu này qua xóm nhà bên kia
kinh đào có tên là Giang Thôn nên gọi là Giang Thôn Kiều. Không phải là Phong
Kiều trong bài thơ đã nói đến.
(Ký sự du lịch Trung Quốc, trang 34, Trịnh Hảo Tâm.)
Về cách đọc bài thơ phong kiều dạ bạc:
Thơ thì có nhiều cách đọc và nhiều cách dịch, tuy nhiên
trước khi đi vào nội dung bài thơ nổi danh của thi hào Trương Kế, chúng tôi xin
đi ra ngoài lề một chút, về chữ Hán (chữ Tàu), thường không phân biệt danh từ
chung và danh từ riêng và cũng không viết Hoa. Hàn San được hiểu là sư Hàn San
cũng được mà chùa trên núi lạnh cũng được, ngoài ra tiếng toàn quốc (và tiếng
địa phương] âm đọc đôi khi giống nhau (nhưng nghĩa lại có khi khác nhau),
Ví dụ:
Khi Vướng An Thạch (lúc chưa làm tể tướng) đi chấm
thi ở Hàng Châu (thi Hương), ông gặp một bài Phú rất hay, tuy nhiên trong bài
Phú này có hai câu làm ông không hiểu (khó nghĩ) là:
Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm
Dịch nghĩa :
trăng sáng gáy đầu núi
chó vàng nằm trong lòng hoa
Ông lấy bút ghi lại hai câu thơ này và sửa lại ra ngoài tờ
giấy của ông như sau:
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng chiếu đầu núi
Chó vàng nằm dưới bóng hoa
Sửa xong thi Vương An Thạch thấy câu thờ tầm thường, cuối
cùng thì Vương An Thạch cũng đánh rớt người khóa sinh đó. Sau vài năm thì ông
mới hiểu ra rằng minh nguyệt và hoàng khuyển người Hàng Châu cho đó là một loài
chim Minh Nguyệt (hót ở đầu núi đêm trăng sang) và Hoàng Khuyển là một loại sâu
nhỏ nằm cuộn tròn trong lòng bông hoa mai hay hoa đào vào mùa xuân.
Bây giờ trở lại bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. chúng tôi không bàn chi cho dài dòng và chỉ tóm tắt lại một bài kiên khảo đăng
trong tờ Kiến Thức Ngày Nay (ỏ Việt nam),, hình như ấn hành vào thập niên 90. Bài
viết này tường thuật một giáo sư học giả người Nhật sang tận nơi (Chùa Hàn San
ở tận Tô Châu) để tìm hiểu bài thơ. Và hỏi rất kỹ về cách đọc làm sao cho đúng
thì được nhà sư trụ trì giải thích như sau:
Nguyên tác bài thơ (Phong Kiều Dạ bạc) của Trương Kế.
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Bài thơ này đọc theo âm Quan Thoại:
Yùe lóa ù thỉ xuân mãn thện
Chiên phong ýu fò túi sầu mển
Củ tô sấn oải Hàn San xứ
Dé bán chung sâng táo khớ soàn.
Giai thích:
Câu 1: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Ngắt câu như sau: nguyệt, lạc ô đề, sương mãn thiên
Giải nghĩa câu 1:
Trăng, lặn về thôn Ô Đề, sương đầy trời
Câu 2: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Giải nghĩa câu 2:
Cây cầu, lửa chài đối diện với ngọn núi Sầu Miên [Sậu Miên
Sơn]
Câu thứ 3 và câu thứ tư: hiểu theo như cũ.
Và theo ý của sư trụ trì thì bài thơ bất hủ của thi hào
Trương Kế chỉ là bài thơ Tả cảnh sông nước. trước mặt chùa Hàn San là núi Sầu
Miên và bên cạnh chùa là cây cầu Phong Kiều, bên kia con lạch là thôn Ô Ðề (chỉ
có vậy).
Tài liệu tham khảo thêm: Trung Quốc ký sự tập 4 trong cuốn
1(bộ 3 cuốn)
Phụ lục:
(Hàn San thi uyển)
Những bài thơ này được trích từ web (Chim Việt Cành Nam) do
nữ si Quỳnh Chi phỏng dịch một số bài thơ của cao tăng Hàn San.
Theo sách Nhật thi như sau:
Cao tăng Hàn San tu ở núi Thiên Ðài. Những bài thơ này trích
trong Hàn San Thập Ðắc của soạn giả Kusomoto Bunyu (nguuời Nhật) của nhà xuất
bản Kodunsha, xuất bản năm 1995 (Hàn San thi uyển).
Nhân vấn Hàn San đạo
Nhân vấn hàn san đạo
Hàn San lộ bất thong
Hạ thiên băng vị thích
Nhất xuất vụ mông mông
Tự ngã hà đo giới
Dữ ngã tâm bất đồng
Quân tâm nhược tự ngã
Hoàn đắc đáo kỳ trung
Người hỏi đường tới Hàn San
Hỏi thăm đường đến Hàn San
Làm chi có lối mà mong hỏi tìm
Giữa hè băng tuyết chẳng tan
Mặt trời lên vẫn tỏa sương mịt mù
Đừng toan theo gót chân ta
Lòng người khác với lòng ta chẳng cùng
Ngày nao đến được hàn san
Là khi người đã một lòng cùng ta
Quỳnh Chi phỏng dịch.
(Chim Việt số 28 ra ngày 1/9/007)
Kỳ tam thập nhị
Đăng trắc hàn san đạo
Hàn San đạo bất cùng
Khê trường thạch lỗi lỗi
Giản khoát thảo mông mông
Đài hoạt phi quan vũ
Tùng minh bất giả phong
Thủy năng diêu thế lụy
Cộng tỏa bạch vân trung
Bài thứ ba mươi hai
Trèo lên đường núi lạnh căm
Đèo cao đường núi cây quanh chẳng cùng
Đá chừng róc rách suối tuôn
Cỏ lan dưới lũng sương lam mịt mờ
Rêu trơn chẳng phải vì mưa
Dù cho gió lặng thông già vẫn reo
Lụy trần ai chẳng mang theo
Trong mây tìm đến vui vầy cùng ta
Quỳnh Chi phỏng dịch
2/12/007
(Chim Việt số 29 ra ngày 2/12/007)
Kỳ tam thập ngũ
Yểu yểu hàn san đạo
Lạc lạc lãnh giải tân
Thu thu thường hữu điểu
Tịch tịch canh vô nhân
Tích tích phong xuy điện
Phân phân tuyết tích thân
Triều triều bất kiến nhật
Tuế tuế bất tri xuân
Bài thứ ba mươi lăm
Đường lên núi lạnh mịt mờ
Cheo leo ghềnh đá bên bờ suối tuôn
Tiếng chim rừng bvẳng xa xăm
Tịch liêu cảnh vắng đường không bóng người
Gió lùa rát mặt khô môi
Tuyết rơi la tả trên vai đong đầy
Sáng ra chẳng thấy mặt trời
Xuân về đâu để tháng ngày dần qua
Quynh Chi phỏng dịch
4/12/007
(Chim Việt số 29 ra ngày 2/12/007)
Sau khi rời khỏi Tô Châu (Cô Tô) thì cao tăng Hàn San về tu
ở núi Thiên Thai Ðài thuộc tỉnh Chiết Giang. Thiền sư có làm nhiều thơ trong Hàn
San Thập Ðắc thi uyển và nơi đây là mấu chốt dễ dẫn đến người đọc thơ Ðường và
người dịch thơ Ðường đến chỗ lầm lẫn.
Ngôi chùa được mang tên Hàn San (tự) tọa lạc tại thành Cô Tô
cũ (thuộc thành phố Tô Châu) là một mặt đất bằng phẳng, có sông lạch, có cầu
và có núi (Sầu Miên) có thôn Ô Ðề nhưng những bài thơ trong Hàn San thi uyển
thì thiền sư Hàn San hay nhắc tới (Nhân vấn Hàn San đạo) hoặc Đắng trắc Hàn San
đạo, hoặc Yểu yểu Hàn San Ðạo, có nghĩa là nơi này toàn là đường núi tuyết lạnh
căm không có dấu chân người, mặt trời lên mà sương núi vẫn mờ mịt.
Ðọc thoáng qua, hoặc chỉ căn cứ vào một vài bài thơ lẻ của
thiền sư Hàn San đẻ chuyển dịch ra tiếng Việt thì thường hay bi lẫn lộn giữa
chùa Hàn San (ở Cô Tô) và thiền sư Hàn San ở núi Thiên Thai (đài).
Nên Nhân vần Hàn San đạo chúng tôi chuyển dịch thành Hỏi
thăm đường tới nơi cư ngụ của thiền sư Hàn San.
Chu Vương Miện
No comments:
Post a Comment