Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên
LỐI NÓI KHOA TRƯƠNG TRONG KHẨU VĂN CỦA NGUYỄN QUANG LẬP
1.
Định nghĩa khoa trương(hyperbole)
Khoa trương tiếng Anh là hyperbole là
một từ có xuất xứ từ tiếng Hi Lạp, được từ điển Oxford giải thích như sau: “Lời
nói cường điệu nhằm một tác động đặc biệt và không để được hiểu theo đúng nghĩa
đen. Thí dụ: I’ve invited millions of
people to my party: Tôi đã mời hàng triệu người đến dự bữa tiệc tôi thết”[7,
tr. 828].
Trong tiếng Việt, khi cần nhấn mạnh
làm nổi bật đặc trưng, tính chất của đối tượng, người ta cố tình nói
quá sự thật; việc nói quá ở đây có thể là phóng to hoặc thu nhỏ đối
tượng cần miêu tả. Lối nói này được
gọi là khoa trương. Khoa trương còn
có các tên gọi khác, như: cường điệu, phóng đại, ngoa dụ.
Ví dụ, khi Nguyễn Quang Lập vẽ chân
dung nhà văn Nguyễn Minh Châu:
(1)
Nghe nói Nguyễn Minh Châu nói chuyện người ta kéo đến đông lắm,
mình hãi quá, nhìn đâu cũng thấy mắt là mắt, giống như người ta sắp ăn thịt mình, hãi chết.
2.
Một số quan niệm về khoa trương
2.1. Quan
điểm của các nhà Việt ngữ về khoa trương
Trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm
tu từ tiếng Việt” tác giả Cù Đình Tú cho rằng, khoa trương là cách tu từ dùng sự cường điệu qui mô của
đối tượng được miêu tả so với những biểu hiện bình thường nhằm mục
đích nhấn mạnh vào một bản chất nào đó của đối tượng được miêu
tả.
Khi sử dụng cũng như khi phân
tích khoa trương không được dừng lại ở sự “quá lời”, “sự phóng đại”
bởi vì cường điệu qui mô chỉ là phương tiện, là công cụ biểu đạt:
phải hướng tới mục đích của sự biểu đạt là nhằm làm rõ hơn bản
chất của đối tượng. Theo ý nghĩa đó thì khoa trương không phải là
nói dối, nói sai sự thật mà làm nổi
rõ một bản chất nào đó của đối tượng.
Bàn về phong cách, Cù Đình Tú
cũng nhấn mạnh: cả hai chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm
hiện ra rõ nét trong khoa trương cho nên khoa trương thích hợp với nhiều
phong cách: phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong cách chính luận, phong
cách ngôn ngữ văn chương. Đứng về mặt thể văn, khoa trương thích hợp
với các loại văn: châm biếm, trữ tình, anh hùng ca.
Theo tác giả Đào Thản trong “Lối
nói phóng đại trong tiếng Việt” thì phóng
đại (còn gọi: khoa trương, thậm xưng, ngoa ngữ, cường điệu) là
dùng từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần những
thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi
bật bản chất của đối tượng cần miêu tả, gây ấn tượng đặc biệt mạnh
mẽ. Khác hẳn với nói điêu, nói khoác về tính chất, động cơ và mục
đích, phóng đại không phải là xuyên tạc sự thật để lừa dối. Nó
không làm cho người ta tin vào điều
nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên.[2, tr.2]
Cơ sở của phóng đại là tâm lí
của người nói muốn rằng điều mình nói ra gây được sự chú ý và tác
động cao nhất, làm người nhận hiểu được nội dung và ý nghĩa đến
mức tối đa.
Các tác giả Đinh Trọng Lạc,
Nguyễn Thái Hòa thì cho rằng, ngoa
dụ còn có tên gọi phóng đại,
khoa trương, thậm xưng, tức là phương thức cường điệu một mức độ,
tính chất, đặc điểm nào đó của sự vật.
Ngoa dụ xuất hiện trong khẩu ngữ
gần như là một biện pháp tăng cường biểu cảm. Chẳng hạn: rét như cắt ruột, vui nổ trời, quét
sạch bong, ngon dễ sợ, đánh nhừ đòn, gầy trơ xương, chết một cái,
giàu nứt đố, lười chảy thây, nhanh như điện, sôi gan tím ruột, đẹp
khủng khiếp, mày đáng lột da, nói bán trời không văn tự v.v…
Chẳng hạn, tác giả viết về “tâm sự” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường:
(2) Mình rót rượu, hai anh em ngồi uống, anh uống một
hơi cạn chén, dằn nhẹ cái chén, nói Lập có biết mình ước gì không…Mình ước được
yêu vợ cho tới bến, ước được một trận
say, được nói một câu tròn vành rõ chữ… thậm chí ước được đi ỉa một
mình không người săn sóc… chỉ ước có rứa thôi mà trời kiên quyết không cho…
Như vậy, theo cách hiểu của chúng tôi
thì, khoa trương hay phóng đại của Hữu Đạt bao gồm cả “nói giảm”
và “nói quá sự thật”. Điểm này khác với phóng
đại của Đào Thản chỉ bao gồm “phóng to sự vật”.
2.2. Quan điểm của tác giả về khoa
trương
Theo quan điểm của chúng tôi thì, khoa
trương hay còn gọi là nói quá, là phép tu từ cường điệu quy mô,
tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng miêu tả. Khoa trương có tác dụng làm nổi
bật những ý cần diễn đạt. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và
đúng bản chất của sự vật hiện tượng. Khoa trương luôn mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân
hoặc cộng đồng sử dụng ngôn ngữ.
Nói chung, người viết bài này hoàn toàn
tán đồng với ý kiến của
các nhà ngôn ngữ học về khoa trương. Chúng tôi cũng rất tâm đắc với
nhận xét của Đào Thản khi tác giả ví von một cách rất hình ảnh: “Phóng đại được dùng như một biện pháp
cần thiết, không thể thiếu trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau,
chỉ trừ phong cách ngôn ngữ khoa học. Tuy nhiên trong khoa học lại không
thể thiếu các phương tiện và thiết bị phóng đại như kính hiển vi và
các khí cụ quang điện khác.
Và
chính cái điều tưởng như nghịch lý này lại có thể giúp chúng ta
hiểu rõ thêm ý nghĩa và tác dụng của phóng đại trong ngôn ngữ” [2,
tr.2]
Chúng tôi cho rằng, khoa trương luôn
mang trong mình nó hai chức năng: chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm hay
chức năng thẩm mĩ. Chẳng hạn, tác giả viết về thằng bé 7 tuổi con của
Trung Trung Đỉnh:
(3) Thằng này cực giỏi, 7 tuổi đã thuộc
hết tên cầu thủ giải bóng đá ngoại hạng Anh, lên đến 10 tuổi thì cầu thủ giải Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan nó đều thuộc hết, còn biết lai lịch cầu thủ đến
tận chân tơ kẻ tóc. Kinh.
3. Cách phân loại khoa trương
3.1. Phân loại khoa trương theo ý
nghĩa
Căn cứ vào ý nghĩa có thể chia khoa
trương thành hai loại: khoa trương phóng to và khoa trương thu nhỏ
3.1.1. Khoa trương phóng to
Khoa trương phóng to là cố ý làm cho
sự vật to ra, đem đặc trưng, số lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự
vật làm cho nhiều lên, nhanh hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn. Ví dụ:
(4) Ba Đẻn ra sân cả vạn người hò hét khản cổ, người hét Đẻn
ơi cố lên; người hét sút đi Đẻn ơi, bên trái bên trái, suýt đi; người hét Đẻn
ơi coi chừng thằng Hiển, nó bám sau lưng mày đấy; người hét thằng Thắng chơi đểu
em đấy, cẩn thận cẩn thận; người hét đạp một phát vào mắt cá nó đi, Đẻn ơi sao
hiền thế hả em… đinh tai nhức óc
nhưng mà sướng củ tỉ. Chỉ thế thôi,
vô ra vẫn thằng cha Ba Đẻn, chẳng có ai. Đời này trên có Bác Hồ dưới có Ba Đẻn thế là đủ sung sướng rồi, world cup
world keo mặc kệ, hầu như ai cũng nghĩ giống mình, chỉ Thanh Thảo là không.
(5) Cô vợ xinh đẹp, diễn viên tài hoa không cách gì rời ông chồng được nửa bước.
(6) Ông
này không yêu vợ, cũng chẳng coi vợ là tài sản quí báu gì, vợ chỉ là cô Osin giúp việc, thỉnh thoảng ngứa
máu bò vào phất một phát rồi kéo quần đi ra, dửng dưng như không.
(7) Hễ
thắng được trận nào thì khoe rầm trời,
chiêu đãi tùm lum, thắng một triệu chiêu
đãi hai, ba triệu.
3.1.2. Khoa trương thu nhỏ
Khoa trương nhỏ là thu nhỏ sự vật; tức
là cố ý đem số lượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ đi, ít
đi, chậm lại, thấp đi, ngắn lại, yếu đi. Chẳng hạn, tác giả viết về một bạn văn
đàn anh:
(8) Nghĩ bụng được anh cho bắt
tay cũng phúc phận lắm rồi, ai ngờ anh tiếp đón y chang tiếp đón kẻ sĩ ngang
cơ, nói năng nhất mực mình mình Lập Lập, tuyệt không một gram khinh thị.
Hay ta hãy xem mấy
nét chấm phá về nhà văn Nguyễn Minh
Châu:
(9) Anh cười khì khì, nói cáí tính
mình nó khỉ thế, sợ từ con giun con dế sợ đi, đã thế lại còn đi viết văn, bố khỉ.
(10) Anh Châu cười khì khì, xuýt xoa
nói chà chà, cái thằng tài, mình không bằng
cái móng tay của nó.
Chú thêm: Sự phân chia này nhiều khi mang tính
tương đối và không thật rạch ròi. Chẳng hạn: ví dụ (10) “bằng cái móng tay” là
khoa trương thu nhỏ, người Việt hay sử dụng và nhiều khi không nghĩ là đang
khoa trương, vậy; nó là khoa trương ở mức độ thấp. Trên bề mặt có sử dụng “không bằng”, vậy nó là khoa trương gián tiếp (có sử dụng từ so sánh).
Xem hình
vẽ (3 trong 1)
3.1.3. Khoa trương thời gian
Khoa trương thời gian là đem hành động xảy
ra sau nói thành hành động xảy ra trước và ngược lại. Cũng có thể hai hành động
đồng thời xảy ra. Chẳng hạn, anh kể về các bạn văn của anh:
(11) Thằng Việt Hà hay lắm, hễ mở mắt là mở mồm, nói rền rĩ từ sáng
đế tối không biết mệt. Mình thuộc loại lắm mồm mà hễ
gặp nó là tự nhiên mất điện liền.
(12) Ngô Minh
làm được vài ly, bắt đầu cười sật sật thì Trần Vàng Sao đến, chưa thấy mặt đã nghe tiếng, nói ua chầu chầu tui nghe
ông viết tui trên báo Thanh niên, lo thắt ruột, không biết cha ni viết cái chi,
té ra đọc xong sướng quá trời luôn.
Có những chuyện
thoạt nghe rất không logic, song người Việt vẫn chấp nhận lối nói này:
(13) Nó k ể một hôm ông trưởng đoàn nghi nó tằng
tịu với vợ ông, định đuổi đi, chưa kịp mở
mồm vợ ông đã vả cho một vả rụng hai cái răng cửa.
(14) Cuộc sống đã đổi thay, trí khôn
đàn bà cũng đã thay đổi, họ biết lấy mấy ông giàu có nhờ trốn thuế nhờ tham
nhũng phúc chưa kịp hưởng hoạ đã gần kề,
hãi lắm.
Anh kể về cách làm báo Bóng đá trong mùa World cup:
(15) Bóng lăn được nửa trận đã tán xong cả thế trận, hết hiệp 2 biết kết quả
tán thêm vài ý, viết vài câu kết thật có cánh coi như xong một bài. Nhược bằng
kết thúc trận đấu có nhiều bất ngờ thì phải khôn ngoan xoay trở sao cho không
phải viết lại mà vẫn đúng y như thế trận.
3.2. Phân loại khoa trương theo hình thức
Căn cứ vào hình thức có thể chia khoa
trương thành mấy loại chính sau:
3.2.1. Khoa trương trực tiếp
Khoa trương trực tiếp là lối nói khoa
trương mà trong đó không sử dụng bất cứ hình thức tu từ nào, vì vậy nó còn được
gọi là khoa trương thuần túy. Ví dụ:
(16) Nó nói, các ông đừng cản tôi, một là vâng theo lời Bác, hai là vâng theo
lời vợ, kiên quyết không vâng theo lời mấy thằng nhà văn ba lăng nhăng các
ông.
(17) Một ông họa sĩ ghi âm vợ nói
chuyện với bồ, cứ đến giờ cơm lại bắt con cái bật lên cả nhà nghe cho vui. Cô vợ
ăn không được, ngủ không được, hộc máu mồm
suýt chết.
(18) Vui nhất
là anh Tô Nhuận Vĩ đến, cứ tưởng sau entry Bạn Văn 3 anh cạch mặt mình cho tới khi xuống lỗ hoá ra anh đến.
(19) Với nhiều người Liên Xô là nhất,
Mỹ chỉ là cái đinh gỉ. Kuwait,
Honduras còn vào được World cup mà Mỹ chẳng thấy khi nào ló mặt vào, đúng là
con hổ giấy hi hi
3.2.2. Khoa trương gián tiếp
Là lối nói khoa trương trong đó phải sử dụng các biện
pháp tu từ khác, vì vậy nó còn được gọi là khoa trương “dung hợp”. Có mấy loại
chính sau:
+ Sử dụng so sánh tu từ có từ so sánh
(20) Vé khan hiếm đắt như sâm.
(21) Đến khi Bỉ gỡ hoà 3 đều mọi người
vẫn tin Liên Xô sẽ thắng, dè đâu thua chung cuộc 4-3, mọi người nhìn nhau ngẩn
ngơ, buồn hơn chấu cắn.
(22) Khoang máy lạnh người
ta không cho hút thuốc lá, ba thằng đều ghiền nặng cả, rượu bia mà không có điếu
thuốc chẳng khác nào đau ốm phải uống thuốc
Bắc.
(23) Hễ nghe có khách, lãnh đạo Hội mặt xanh như đít nhái, cái mặt cười y chang cái mặt trâu ngửi l., tội lắm.
(24) Kinh nghiệm cho hay, ông nào lắm tiền nhiều của, có bao bì ngon lành, ra đường
cua gái nhanh như chớp mắt thì về
nhà càng ghen vợ dữ tợn.
(25) Yêu vợ như ông nhà văn T. cũng gọi
là xưa nay hiếm. Lấy nhau đã gần ba chục năm mà mỗi lần nhìn vợ mắt ông cứ đắm đuối như thôi miên thì phục quá.
(26) Đã đành vợ là cơm nguội- vợ là
cơm nguội nhà ta. Nhưng là phở tái thằng cha láng giềng- cơm nguội để dành mấy
chục năm chán lắm, ăn thì chả ăn nhưng hễ ai động đến thì lồng lên như sói.
(27) Nó là thằng thiên kinh vạn quyển, lại nghiện đọc báo như nghiện thuốc phiện, thành ra chuyện trên trời dưới biển thứ gì cũng biết một ít, hễ động đến là nói, lắm
khi thật nhức đầu nhưng không có nó cũng buồn.
(28) Xưa nay đều vậy, phim trường nước ta thằng có
tài thì xón tiền như đái dắt, thằng bất tài, giỏi múa mép
thì ôm tiền cả mớ, quyết làm giàu trước khi làm phim
+ Sử dụng
hoán dụ biểu thị khoa trương.
Ví dụ:
(29) Nhà có người đi Tây thì cả làng cả tổng đều biết
+ Sử dụng
ẩn dụ (so sánh không có từ so sánh) biểu thị khoa
trương. Ví dụ:
(30) Lập tức chị gọi máy, nói này, thằng
già kia bướm tao ngàn vàng khôn chuộc,
một cái huy chương rởm của mày mà đòi đổi à, ngu thế.
Câu này có thể hiểu là: bướm tao đắt như (ngang với) ngàn vàng.
(31) Thằng Cún nói mới hiệp một sao bố bảo thua, anh nhăn nhó nói thua, con ơi
thua, Brazil mạnh như trời làm sao thắng được nó. Đến khi Hà Lan thắng Brazil
2-1 anh nằm dạng chân tay giữa sàn nhà cười khà khà, nói tóm lại thằng Cún nhà tao vẫn thiên tài.
Câu trên có thể hiểu: thằng Cún nhà tao vẫn là một thiên
tài
3.2. Phân
loại khoa trương theo mức độ
3.2.1.
Khoa tương ở mức độ thấp
Là cách nói quá
đi so với cái có thật trong thực tế. Sự cường điệu tuy có thể nhân lên tới hàng
trăm hàng nghìn hàng vạn lần, nhưng vẫn chưa đến mức phi lí, vẫn chấp nhận được.
Chẳng hạn: vô cùng vĩ đại, hết sức khó
khăn, trăm công nghìn việc, (làm) một loáng là xong, trong nháy mắt, ba chân
bốn cẳng. Ví dụ:
(32) Đàn bà cô nào máu lắm cũng chỉ yêu được một lúc năm bảy anh là cùng,
đa số chỉ chăm chỉ về nhà ăn cơm, thi thoảng mới tạt ngang kiếm bát phở rồi lại ba chân bốn cẳng chạy về nhà ăn cơm
hay cho cơm ăn. Thế thôi.
(33)
Nước mình chủ yếu làm nghề nông, dân quê ai cũng mê có con trai, sức dài vai rộng
gánh vác việc nhà không nói làm gì, dân phố cũng thích có con trai, lắm kẻ vừa
đẻ đứa con gái đã lo phát cuồng, tìm hết sách nọ sách kia, thuốc này thuộc nọ,
cứ làm như không có con trai thì tan cửa
sập nhà.
(34) Mấy ông bà nhà văn, viết sách báo
thì một mực nói không nên trọng nam khinh nữ, trai gái gì cũng là con, con nào
ngoan hiền, giỏi giang đều quí cả, nhưng nếu đẻ rặt con gái thì mặt mày ỉu xìu,
thở vô thở ra như sắp vong gia bại sản
không bằng.
3.2.2.
Khoa trương ở mức độ cao
Khoa trương ở mức độ cao là cách nói nói
quá sự thật mmột cách quá đáng, đến độ phi lí không thể tin được. Chẳng hạn: không cánh mà bay), một bước lên giời), một chữ bẻ đôi cũng
không biết, một ngày dài hơn thế kỉ, ngàn cân treo sợi tóc, ba đ ầu sáu tay. Ví
dụ:
(35) Mình nghĩ mãi không ra làm sao một
lúc có thể làm được môn nghệ thuật cao sang kia, trong khi một nốt nhạc bẻ đôi cũng không biết.
(36) Nó ngồi ngâm, nhìn giàn thiên lí tuyệt hảo
của vợ đang phơi ra mà không làm gì được, tức muốn chết. Nó than, người ta nói một ngày tù nghìn thu ở ngoài, mình thì
một phút ngâm hạ bộ nghìn thu ở ngoài,
khổ ơi là khổ.
(37) Ông Tường nước lọc vào lời cũng ra, lại toàn lời vàng ngọc.
(38) Tuổi lấy chồng của con gái ngày
mỗi cao, xưa quá hai mươi đã sợ ế chồng lo
sốt vó, nay nhiều cô ba mươi tuổi vẫn nhởn nhơ như tuổi đang xuân, chưa
đến bốn mươi chưa lo ế.
3.3.3. Khoa trương ở mức độ cực cấp
(39) Xưa Ái Vân nổi tiếng
đẹp nhất nước hát hay đóng phim Chị Nhung đẹp như tiên sa coi như một siêu sao. Tụi mình chỉ dám đứng ngước lên ngưỡng mộ
không khi nào dám nghĩ sẽ được gặp Ái Vân một lần.
(40) Biết là anh Sách quá rõ hoàn cảnh
của mình, đến hay không đến anh chẳng trách nhưng vẫn ân hận vô cùng.
(41) Mình nghe Thanh Thảo kể tên các
danh thủ nước ngoài dễ dàng như lấy từ túi áo ra nể phục anh vô cùng.
(42) Có những khi giữa nghệ thuật và chơi ngông chỉ
cách nhau một sợi tóc, người hám chơi ngông nhân danh nghệ thuật bày trò
thiên thối không nói làm gì, kẻ không bíêt cũng a dua, bày hết trò này sang trò
khác vô cùng rởm đời.
(43) Tất nhiên thời nào gái đẹp, gái
nổi tiếng đều hot cả, thời bao cấp cũng thế, nhưng thời này gái mậu dịch được trọng vọng nhất, hầu như họ không có đối
thủ trong tình trường.
3.3.4. Khoa trương ở mức độ huyễn tưởng
Là khoa trương về những chuyện không có thật hoàn toàn do tác giả tưởng
tượng ra
(44) Hồi đó mình biết mê bóng đá rồi nhưng chẳng biết tí gì bóng đá thế giới, có
nghe nói đến bóng đá Brazin, đến ông Pele như nghe như chuyện trên trời, nói thật cũng chẳng mấy quan tâm,
(45) Cũng như anh Sơn ( Trịnh
công Sơn), anh Tường không biết cơ man các em xinh đẹp mê đắm, rốt cuộc cũng chỉ trăng gió vu vơ thôi, chẳng đâu vào đâu.
(46) Về đến nhà thấy nhẹ cả
người, y chang mình vừa bị người ngoài hành tinh bắt cóc vừa thả cho về.
(Còn
nữa, kì sau đăng tiếp)
Nguyễn Ngọc Kiên
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ
tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
2. Đào Thản (1990), Lối
nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
3. Đinh Trọng Lạc (2005), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng
Việt, Nxb Giaó dục.
4. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
5. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn như Ý (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Anh Việt, NXB Khoa học Xã hội
NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN
Nguyễn Quang Lập, (2009), Kí ức vụn, Nxb Hội nhà văn
Nguyễn Quang Lập, (2011), Chuyện đời vớ vẩn, Nxb Văn học
Nguyễn Quang Lập, (2011), Bạn văn, Nxb Trẻ
KÌ SAU ĐÓN ĐỌC
2) Các phương tiện tu từ
và biện pháp tu từ biểu thị khoa trương trong khẩu văn của Nguyễn Quang Lập
3) Sử dụng thành ngữ
khoa trương trong khẩu văn của Nguyễn Quang Lập
No comments:
Post a Comment