Alice Munro
♦ Chuyển ngữ: Nguyễn Đức Tùng
"Những
khái niệm về giáo dục căn bản không áp dụng được ở đây. Một số trẻ em sẽ tái nhập
thế giới hoặc xã hội nhưng một số sẽ không bao giờ. Tốt nhất là đừng lo lắng
nhiều quá. Có nghĩa là chuyện trắc nghiệm và ôn bài chỉ hoài công. Hãy quên đi
chuyện xếp lớp. Những đứa cần lên lớp sẽ theo kịp sau này hoặc chúng cũng chẳng
cần lên lớp làmchi. Thật ra chỉ cần những kỹ năng vô cùng đơn giản, các yếu tố
thực tế này nọ, vân vân, sao cho đủ để vào đời. Thế những đứa trẻ thiên tài thì
sao? Đây là cách phân loại dị hợm. Nếu chúng là những đứa thông minh dựa theo
phương pháp giáo dục còn nhiều nghi vấn thì chúng tất sẽ bắt kịp.
Hãy quên đi những
con sông ở Nam Mỹ, hãy quên Magna Carta.
Hội họa âm nhạc
và những truyện kể nên được ưu tiên.
Các trò chơi
cũng thích hợp nhưng hãy để ý cẩn thận đừng để bọn trẻ quá sức hào hứng hay
tranh đua quyết liệt quá.
Hãy cố gắng tạo
sự cân bằng giữa lo âu và chán chường. Sự chán chường đưa đến bệnh tật.
Nếu đôi khi
Matron không thể giúp bạn thì người quét dọn vệ sinh có thể sẽ giúp bạn được.
Chúc may mắn."
Số học sinh hiện
diện thay đổi mỗi ngày. Mười lăm đứa, có khi rơi rụng còn sáu bảy đứa. Chỉ học
buổi sáng từ chín giờ đến trưa, kể cả giờ nghỉ ra chơi. Trẻ con không được tới
trường nếu chúng bị sốt hoặc đang trong quá trình xét nghiệm. Nếu có mặt chúng
sẽ im lặng và dễ bảo, nhưng không tỏ ra hào hứng về chuyện gì. Chúng biết ngay
rằng đây là một hình thức nhà trường giả tạo nơi chúng chẳng phải học hành vất
vả theo những tiêu chuẩn nghiêm khắc vì không phải bám theo chương trình học và
không phải học thuộc bài. Niềm tự do này không làm chúng sỗ sàng hay chán nản
gì, chỉ là khiến chúng trở nên dễ bảo và lơ tơ mơ. Bọn học sinh hát theo vòng
ngân nga. Chúng chơi những trò chơi của học sinh. Có một cái bóng của sự thua
cuộc, chịu trận, lơ lửng trong những lớp học ngẫu hứng.
Tôi quyết định
nghe theo lời khuyên của ông bác sĩ, hoặc chỉ một vài lời khuyên. Chẳng hạn lúc
ông ta nói về sự chán chường như một kẻ thù của bạn.
Trong căn phòng
nhỏ của người dọn vệ sinh tôi thấy quả địa cầu. Tôi đề nghị đem nó tới. Tôi bắt
đầu giảng bài về địa lý căn bản. Năm châu, bốn biển, khí hậu. Sao không nói
luôn về gió và các dòng hải lưu? Các quốc gia và các thành phố? Các đường hạ
chí tuyến và đông chí tuyến của đường xích đạo? Thế rồi các con sông của Nam Mỹ
nữa?
Một số trẻ con
đã từng học qua, nhưng chúng gần như quên cả. Thế giới phía sau mặt hồ và khu rừng
đã bị quên đi mất. Tôi nghĩ là chúng vui vẻ trở lại, như thể bắt tay làm bạn với
những gì chúng đã từngbiết. Tôi không nhồitất cả kiến thức vào chúng cùng một
lúc, tất nhiên và tôi phải đi từng bước, nhất là với những đứa chưa từng học những
thứ này trước khi chúngngã bệnh quá sớm.
Nhưng không sao
hết. Có thể coi sự dạy học như một trò chơi. Tôi chia học sinh ra từng đội, bắt
chúng trả lời lớn tiếng khi tôi chỉ chỗ này chỗ kia với một cái thước kẻ. Tôi cẩn
thận không để sự hào hứng của bọn trẻ kéo dàiquá lâu. Nhưng một ngày kia ông
bác sĩxuất hiện, vừa mới từ một cuộc mổ ra, và tôi bị bắt gặp. Tôi không thể
nào dừng lại trò chơi hào hứng, nhưng tôi kiềm chế cuộc ganh đua. Ông ta ngồi xuống
vẻ hơi mệt mỏi, trầm lặng. Ông bác sĩ không hề phản đối. Một lúc sau ông ta bắt
đầu tham gia vào trò chơi, xướng lên những câu trả lời kỳ quặc, những cái tên
không những sai mà còn hoàn toàn là tưởng tượng. Rồi ông để cho giọng nói của
mình trầm xuống. Nhỏ, nhỏ lại, nhỏ dần, mới đầu như một tiếng lầm bầm, rồi như
một tiếng nói thầm, cho đến một lúc không còn ai nghe được gì nữa. Không nghe
gì cả. Bằng cách này với vẻ quái gở, ông ta điều khiển cả căn phòng. Cả lớp học
bỗng nhiên bắt chước ông ta nói thì thào, lầm bầm, mắt chúng nhìn chằm chặp lên
môi của ông bác sĩ.
Bỗng nhiên ông
ta gào một tiếng làm cho bọn trẻ cười ngả nghiêng.
“Tạo sao mọi người
cứ nhìn tôi thế? Cô giáo có dạy các cháu làm thế không? Nhìn chằm chặp vào một
người không hề làm phiền ai cả?”
Hầu hết bọn trẻ
đều cười phá lên, nhưng một số vẫn nhìn ông ta chằm chặp. Bọn chúng mong được
kéo dài những giây phút tinh quái …
“Tiếp tục đi. Chạy
tít và làm trò phá phách chỗ nào đi.”
Ông ta xin lỗi
tôi vì đã chen ngang vào lớp học. Tôi bắt đầu giải thích cho ông những lý do vì
sao tôi phải làm cho nó giống như một trường học thật.
“Mặc dù tôi đồng
ý với bác sĩ về chuyện các em dễ bị xúc động -” Tôi bắt đầu nói một cách thành
khẩn. “Tôi đồng ý với bác sĩ về những điều ông viết trong bản hướng dẫn. Tôi chỉ
nghĩ rằng … ”
“Bản hướng dẫn
nào? Ồ, đó toàn là những thứ lặt vặt đã hiện lên trong đầu tôi. Tôi không hề có
ý tạc nó vào đá đâu.”
“Tôi muốn nói rằng
miễn là các em không quá yếu vì bệnh tình …”
“Tôi tin là cô
giáo nói đúng, tôi không nghĩ chuyện đó có vấn đề gì.”
“Nếu không chúng
sẽ dễ bị lơ đãng.”
“Cô không cần phải
nói dài dông về chuyện này nữa,” ông bác sĩ bảo và bỏ đi.
Rồi bỗng quay lại
xin lỗi gần như nửa giả dối nửa chân thành.
“Chúng ta sẽ bàn
thêm về chuyện này một hôm khác.”
Một hôm khác,
tôi nghĩ, tức là không bao giờ. Ông ta rõ ràng là nghĩ tôi như một kẻ quấy nhiễu
ngớ ngẩn.
Vào buổi ăn trưa
hôm đó từ những người phụ tá, tôi được biết rằng có một người bệnh đã chết
trong phòng mổ. Và nỗi tức giận của tôi có vẻ không hợp lý lắm và vì vậy tôi thấy
mình đúng là ngớ ngẩn.
Tất cả những buổi
chiều tôi đều tự do rảnh rỗi. Mắt tôi nhíu lại buồn ngủ và tôi cũng muốn thế.
Phòng ở lạnh – tất cả những phòng của tòa nhà đều lạnh, lạnh hơn nhiều so với
căn chung cư ở đại lộ, nơi ông bà của tôi giữ hệ thống sưởi ấm ở mức thấp nhất,
để tiết kiệm trong thời kỳ đất nước chiến tranh. Và chăn mền thì mỏng – chắc chắn
những người bị bệnh lao phổi cần thứ gì ấm áp hơn chăng.
Tất nhiên tôi
không bị bệnh lao. Có thể là người ta keo kiệt hay hà tiện đối với những người
như tôi.
Tôi thấy chóng mặt
nhưng không ngủ được. Trên đầu tôi ghe tiếng ồn của những chiếc giường có bánh
xe được đưa ra hiên để hóng gió chiều buốt lạnh.
Tòa nhà, cây cối,
mặt hồ, sẽ không bao giờ phát hiện như ngày đầu tôi mới đến đây, khi tôi ngẩn
người vì sự thần bí và quyền uy của nó. Vào ngày hôm đó tôi đã tin rằng mình là
một kẻ vô hình. Hiện giờ điều này coi như chẳng bao giờ như vậy.
Kia là một cô
giáo. Cô ta làm gì ở đó?
Cô ta đứng nhìn
mặt hồ.
Để làm gì kia chứ?
Đâu có chuyện gì
khác mà làm.
Chà, có người rảnh
rỗi quá nhỉ.
Đôi khi tôi bỏ bữa
ăn trưa, mặc dù đó là một phần tiền lương của tôi. Tôi tới Amundsen nơi tôi có
thể ăn trưa trong một quán cà phê. Cà phê hiệu Postum, một bánh mì kẹp cá hồi hộp,
nếu họ có. Một dĩa xà lách trộn thịt gà phải được xem kỹ để tránh những mảnh da
và sụn. Dù sao tôi cũng thấy dễ chịu hơn nhiều ở đó. Vì chẳng ai biết tôi là
ai.
Nhưng hình như
tôi đã nhầm.
Quán cà phê
không có phòng vệ sinh phụ nữ, vì vậy bạn phải tới khách sạn kế bên, đi qua một
lần cửa mở của tiệm bia, lúc nào cũng tối và ồn ào và bốc mùi bia và rượu
whisky, nồng nặc khói thuốc lá và khói xì gà làm bạn muốn xỉu. Mặc dù vậy tôi vẫn
cảm thấy thỏa mái ở đó. Những người thợ cưa, từ nhà máy xẻ gỗ, không bao giờ cười
rú lên khi thấy phụ nữ, như cái cách mà những người lính bộ binh và không quân ở
Toronto đã làm với tôi. Họ ngụp lặn trong thế giới đàn ông với những câu chuyện
ồn ào của mình, không phải tới đây để tìm phụ nữ. Có thể họ thích được một mình
ra khỏi những mối quan hệ nào đó.
Văn phòng của
ông bác sĩ ở trên đường lộ chính chỉ là một tòa nhà nhỏ. Vậy chắc ông ta sống ở
một nơi khác. Những người hộ lý bảo tôi là ông không có vợ. Ở bên đường tôi thấy
một căn nhà có vẻ như của ông ta – một nhà xi măng với cửa sổ ở phía trước, có
nhiều sách dựng lên ở trên khung cửa. Khu nhà có vẻ ảm đạm nhưng ngăn nắp, chỗ ở
tối thiểu nhưng tiện nghi gọn ghẽ, mà một người đàn ông độc thân – một người cô
độc, chỉn chu – có thểtạo cho mình.
Trường học ở cuối
khu phố dân cư duy nhất có hai tầng lầu. Tầng dưới dành cho học sinh từ nhỏ đến
lớp tám, tầng trên cho đến lớp mười hai. Một buổi chiều tôi thấy Mary ở đó tham
dự trò chơi ném hòn tuyết. Dường như một bên là bọn nữ sinh một bên nam sinh.
Khi nhìn thấy tôi, Mary la lớn, “Ơ kìa, cô giáo,” và dùng hai tay ném bừa những
hòn tuyết rồi băng thong thả qua đường. “Hẹn gặp chúng mày ngày mai.” Nó nói
ngoái lại, để biết chắc là không có ai đi theo sau nó.
“Cô đang đi về
nhà phải không?” nó hỏi. “Em cũng vậy. Em thường đi xe với Reddy, nhưng hôm nay
lại về muộn. Cô làm gì, đi xe điện hả?”
Tôi trả lời vâng
và Mary nói, “Ồ, em có thể chỉ cho cô cách khác mà cô tiết kiệm được tiền. Đường
qua những bụi rậm.”
Rồi nó dẫn tôi tới
một con đường chật hẹp nhưng đi được, nhìn xuống khu phố, chạy xuyên qua rừng
và qua nhà máy cưa.
“Đây là con đường
mà Reddy hay đi,” nó nói. “Con đường này ở trên cao nhưng ngắn hơn khi cô tới
nhà thương.”
Chúng tôi đi vượt
qua nhà máy cưa, và bên dưới, hiện ra một vài chỗ cắt xén loang lổ của khu rừng.
Một vài nơi có vẻ là có người ở vì có nhiều đống gỗ, dây phơi quần áo, khói lam
chiều bay lên. Từ khu nhà ấy một con chó thật lớn chạy ra giơ nanh sủa ồn ào.
“Câm mõm đi,”
Mary kêu lên. Không biết từ lúc nào nó có sẵn một quả bóng tuyết vo tròn trong
tay ném phụt một cái trúng ngay giữa hai mắt của con vật. Nó chạy vòng và con
bé lại có thêm một cục tuyết nữa trong tay sẵn sàng ném nó. Một người đàn bà
mang tạp dề trước bụng đi ra và la lên, “Mày giết nó mất.”
“Càng tốt cho những
thứ rác rưởi …”
“Tao sẽ mách chồng
tao cho mày biết.”
“Ai cấm. Chồng
bà chẳng làm nên trò trống gì.”
Con chó đi theo
chúng tôi một quãng xa, vẻ đe dọa nửa chừng.
“Em có thể trừng
trị tất cả các con chó, cô đừng lo.” Mary bảo. “Em nghĩ là em có thể đối phó được
một con gấu nếu chúng ta lỡ gặp phải nó.”
“Không phải là
những con gấu đang ngủ đông hay sao.”
Tôi đã khá sợ
con chó nhưng giả vờ phớt tỉnh.
“Đúng vậy nhưng
mình chẳng bao giờ biết. Đã có một con gấu từng thức dậy rất sớm và tới đống
rác gần nhà thương rồi. Mẹ em lúc quay người lại đã thấy một con như thế. Reddy
chạy đi lấy khẩu súng và bắn chết nó.”
“Reddy thường
hay mang em và Annabel tới chỗ xe trượt tuyết, và đôi khi những đứa trẻ khác nữa
và ông ta có một loại sáo đặc biệt khiến cho những con gấu sợ hãi lánh xa. Nốt
của loại sáo này cao lắm tai của người ta không nghe được.”
“Thật à, em có
thấy vậy chưa?”
“Không phải là ống
sáo thật. Em muốn nói là thứ ông ta có thể làm với miệng của mình.”
Tôi nghĩ tới buổi
trình diễn vừa qua trong phòng học.
“Em không biết,
có thể là để làm cho Annabel đừng quá sợ như ông ta bảo thế. Con bé không thể
ngồi trên xe vì vậy ông ta phải kéo nó trên một cái xe trượt tuyết loại nhẹ. Em
chạy theo sau nó và đôi khi lén nhảy lên xe và ông ta sẽ nói quái quỷ gì vậy,
nó bỗng nhiên nặng cả tấn. Thế rồi ông quay thật nhanh để chụp lấy em nhưng chẳng
bao giờ làm được. Ông sẽ hỏi Annabel cái gì làm cho xe trượt tuyết trở nên nặng
nề, có phải mày đã ăn sáng nhiều quá không nhưng con bé không nói gì cả. Nếu có
những đứa trẻ khác em cũng sẽ không làm vậy. Thú vị nhất là chỉ có mình em và
Annabel. Nó là đứa bạn thân nhất của em.”
“Còn những đứa
con gái khác ở trường thì sao? Bọn nó không phải là bạn của em à?”
“Em chỉ chơi với
chúng khi không có ai cả. Bọn chúng toàn là một lũ ngốc.”
“Annabel và em
có chung ngày sinh nhật trong một tháng. Tháng sáu. Vào ngày sinh thứ mười một
của chúng em, Reddy mang chúng em xuống một cái hồ nước trên một chiếc thuyền.
Ông dạy chúng em bơi lội. Thật ra chỉ có mình em. Lúc nào ông ta cũng phải giữ
chặt lấy Annabel. Con bé không biết cách bơi. Có lần ông bơi một mình ra xa và
hai chúng em liền lấy cát đổ vào giầy của ông ấy. Vào ngày sinh nhật thứ mười
hai chúng em không đi xa đâu được liền tới nhà ông để ăn bánh. Con bé không ăn
được một miếng nào nên ông ấy dẫn chúng em đến xe hơi và chúng em ném những miếng
bánh qua cửa sổ cho bọn chim hải âu. Chúng giành nhau kêu ầm ĩ. Chúng em cười
phá lên khiến ông ta phải kêu dừng lại và ôm chặt lấy Annabel để cho nó khỏi bị
ho ra máu.”
“Và sau đó,” nó
nói tiếp, “sau đó thì em không được phép gặp Annabel lần nào nữa. Mẹ em không
bao giờ muốn em đi chơi với những đứa trẻ bị bệnh lao phổi. Nhưng Reddy nói
chuyện với mẹ em, ông bảo sẽ ngừng rủ em đi theo khi cần. Rồi ông ngừng thật và
em lấy làm tức giận. Nhưng Annabel không còn vui vẻ như trước nữa bởi vì nó bệnh
quá. Em sẽ chỉ cho cô ngôi mộ của nó nhưng ở đó chẳng có một tấm bia nào cả.
Reddy và em sẽ làm một cái bia cho nó khi ông ta có thì giờ. Nếu chúng ta đi thẳng
chứ không đi xuống như vừa nãy thì chúng ta đã gặp nghĩa địa của nó rồi. Đó là
nơi dành cho những người không có thân nhân, chẳng ai mang họ về nhà.”
Vào lúc này
chúng tôi đã đi xuống khu vực gần nhà thương.
Nó nói, “Ồ tí nữa
em quên mất,” và lôi ra một nắm những tấm vé.
“Cho ngày lễ
Valentine. Chúng em có một vở ca nhạc kịch ở nhà trường gọi là Pinafore. Đây là
những tấm vé em mang đi bán và cô sẽ mua cái đầu tiên. Em đóng trò trong vở ca
nhạc kịch ấy.”
Tôi đoán đúng về
ngôi nhà ở thị trấn Amundsen là nơi cư ngụ của ông bác sĩ. Ông ta đã dẫn tôi về
nhà ăn tối. Lời mời đưa ra tự nhiên trong một lúc khi chúng tôi tình cờ gặp
nhau ở hành lang. Có lẽ ông ta hơi ái ngại về lời hẹn sẽ nói chuyện với tôi về
phương pháp giảng dạy.
Bữa ăn tối mà
ông bác sĩ định mời trùng với ngày diễn kịch của Mary. Tôi kể cho ông nghe và
ông bảo, “Thì tôi cũng mua như cô. Nhưng không nhất thiết chúng ta phải tới đó
đâu.”
“Tôi có cảm giác
như thể tôi đã hứa với nó rồi.”
“Ồ thế à, thế
thì cô có thể hủy lời hứa đó đi. Đó là một điều phiền não, hãy tin tôi đi.”
Tôi nghe lời ông
bác sĩ mặc dù tôi không gặp lại Mary. Tôi đứng chờ ở nơi mà ông đã chỉcho tôi, ở
một khoảng hiên rộng trước cửa ra vào. Tôi mặc một cái đầm đẹp màu xanh dương đậm
với những cúc áo kết bằng ngọc trai, cổ đăng ten, chân mang giày cao gót bên
trong đôi ủng đi tuyết. Tôi đứng chờ hồi hộp, lo lắng, thoạt tiên bởi vì sợ rằng
Matron sẽ bước ra khỏi văn phòng và nhìn thấy tôi, và kế đó là sợ ông bác sĩ chẳng
nhớ gì chuyện hẹn hòcả.
Nhưng rồi ông đến,
cúc áo choàng cài tận cổ, và xin lỗi.
“Lúc nào cũng có
vài chuyện gì đó phải làm cho xong.” Ông nói, và dẫn tôi đi dưới bầu trời đầy
sao sáng vòng quanh tòa nhà tới chỗ xe hơi. “Cô đi được chứ?” Ông ta bảo và tôi
nói vâng – mặc dù hơi lo lắng về đôi giày của mình – ông ta không hề đưa tay ra
đỡ tay tôi.
Chiếc xe hơi cũ
và hơi tồi tàn như hầu hết xe thời đó. Không có máy sưởi trong xe. Khi ông bảo
sẽ đưa tôi về nhà ông, tôi cảm thấy bớt lo lắng. Tôi không tưởng tượng được
chuyện chúng tôi phải bon chen với đám đông ở khách sạn và cũng kỳ vọng là
không phải ngồi ăn bánh sandwich ở tiệm cà phê.
Khi đã vào nhà,
ông bảo tôi đừng cởi áo choàng vội để cho ấm một chút đã. Ông bận rộn châm lửa
lò sưởi đốt bằng củi.
“Tôi sẽ là người
dọn dẹp kiêm đầu bếp kiêm người chạy bàn cho cô giáo,” ông ta bảo.
“Một lát nữa cô
sẽ thấy thoải mái, bữa ăn tối không lâu đâu. Cô không phải giúp đỡ gì, tôi muốn
làm một mình. Cô giáo muốn ngồi đâu để chờ? Nếu muốn cô có thể ngồi coi sách ở
phòng trước. Ở đó không lạnh lắm nếu cô mặc áo choàng ấm. Nhà này có lò sưởi
nhưng tôi không sưởi những phòng không dùng tới. Nút bật đèn ở phía sau cửa.
Xin phép cô tôi muốn nghe tin tức trên đài phát thanh, đó là thói quen.”
Tôi bước tới
phòng trước, cảm thấy phần lớn như mình đã bị sai khiến, để cửa bếp mở rộng.
Ông ta bước tới khép cửa bếp lại và nói “để thế cho đến khi nào ấm lên một chút
đã,” và quay lại với giọng của phát ngôn viên trên đài CBC, một giọng nói thánh
thót, điêu luyện, đầy tính kịch, đọc bản tin chiến tranh, vào năm cuối cùng.
Tôi không nghe được giọng nói ấy từ khi tôi rời căn hộ của ông bà tôi và tôi ước
gì mình cứ đứng trong bếp. Nhưng rồi có nhiều sách vở để coi. Không phải chỉ
trên kệ sách mà cả trên bàn, trên ghế, trên cửa sổ, chất đầy sàn nhà. Sau khi
lướt qua vài cuốn sách tôi có thể kết luận rằng ông ấy thích mua sách thành từng
đợt và chắc là thành viên của một nhóm đọc sách nào đó. Những cuốn sách cổ điển
của Harvard. Cuốn lịch sử của Will và Ariel Durant – rất giống với những cuốn
trên kệ sách của ông nội tôi. Tiểu thuyết và thơ có vẻ ít hơn, mặc dù cũng có
vài cuốn, đáng ngạc nhiên là lcó cả những sách nhi đồng.
Những cuốn về nội
chiến Mỹ, chiến tranh Nam Phi, các trận đánh của Napoleon, cuộc chiến tranh Hy
Lạp cổ đại, sự nghiệp của Caesar. Thám hiểm Amazon và Bắc băng dương. Những cuốn
sách cho tôi thấy người đọc là một người muốn nắm kiến thức bao quát nhưng đồng
thời dễ bị chia trí. Có lẽ không phải là một người có sở thích chắc chắn và
chính xác.
Vì vậy mà ông ta
từng hỏi tôi, “Cuốn tiểu thuyết Nga nào,” lúc hỏi thế có lẽ ông không có một kiến
thức cụ thể nào như tôi đã tưởng.
Khi ông bác sĩ gọi,
“sẵn sàng rồi,” và tôi mở cửa ra, tôi đã có chút tự tin về sự nghi ngờ này.
Tôi nói, “Ông đồng
ý với Naphta hay Settembrini?”
“Xin lỗi?”
“Đó là các nhân
vật trong cuốn Ngọn Núi Thiêng. Ông thích Naphta hay Settembrini hơn?”
“Nói thật, tôi
luôn nghĩ rằng cả hai đều là những tên ba hoa lắm mồm. Còn cô?”
“Settembrini thì
có vẻ nhân tính hơn nhưng Napht thì lý thú hơn.”
“Thế người ta dạy
cô ở trường à?”
“Tôi chẳng bao
giờ đọc mấy thứ đó ở trường.” Tôi trả lời lạnh lùng.
Ông ngước nhìn
tôi, lông mày nhíu lại.
“Ồ xin lỗi. Nếu
có cuốn sách nào làm cô thích cứ tự nhiên tới đây đọc khi nào cô rảnh. Có một
máy sưởi ấm bằng điện tôi có thể đặtra đây, vì tôi nghĩ là cô không có kinh
nghiệm dùng lò sưởi đốt củi. Chúng ta bàn thêm về chuyện này nhé? Tôi có thể
làm cho cô một chìa khoá riêng.”
“Cám ơn ông.”
Thịt heo cốt lết
để ăn tối, khoai tây nghiền, đậu hạt hộp. Tráng miệng bằng bánh ngọt nhân táo
mua từ tiệm bánh, còn ngon hơn nữa nếu ông ta nghĩ đến chuyện hâm nóng lên.
Ông hỏi tôi về đời
sống ở Toronto, chương trình đại học, ông bà tôi. Ông bảo rằng ông tưởng là tôi
được nuôi nấng dạy dỗ theo phương thức giản dị và giới hạn.
“Ông nội tôi là
một mục sư có đầu óc tự do theo khuynh hướng của Paul Tillich.”
“Còn cô? Có phải
là một đứa cháu gái theo đạo Thiên chúa giáo phóng khoáng không?”
“Không phải.”
“Touché. Cô có
nghĩ là tôi hơi thô lỗ không?”
“Cái đó tùy. Nếu
ông đang phỏng vấn tôi như một ông chủ, thì không.”
“Thế thì tôi sẽ
tiếp tục. Cô có bạn trai không?”
“Thưa có.”
“Tôi đoán là ở
trong quân đội.”
Tôi nói, ở trong
hải quân. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, cho phép tôi được nói là tôi chẳng biết
anh ra ở đâu và chẳng nhận được thư từ gì ráo. Tôi có thể nói là bạn trai của
tôi không được lên bờ.
Ông bác sĩ đứng
dậy và mang lại bình trà.
“Anh ta phục vụ
trên chiến thuyền loại gì?”
“Hộ tống hạm.” Lại
một sự chọn lựa khôn ngoan nữa. Sau một lúc tôi nghĩ là có thể cho chiếc thuyền
ấy bị thủy lôi như thường xảy ra với các chiến thuyền loại này.
“Một chiến sĩ
dũng cảm. Cô muốn dùng sữa hay đường?”
“Cám ơn, tôi
không dùng thứ nào cả.”
“Cách nào cũng tốt
vì tôi chẳng có thứ nào. Cô biết không, khi cô nói dối mặt cô đỏ lên.”
Nếu tôi chưa bị
đỏ mặt trước đó thì lúc này. Đầu tiên có một luồng nóng chạy từ chân lên, mồ
hôi ứa ra trong nách. Mong sao cho cái áo đầm không bị hỏng mất.
“Tôi lúc nào
cũng đỏ mặt lên khi uống trà.”
“Ồ vậy à.”
Mọi chuyện không
thể nào tệ hại hơn nữa. Vì vậy tôi bình tĩnh lại và tìm cách trả đũa. Tôi đổi đề
tài, hỏi ông ta mổ bệnh nhân như thế nào. Có phải ông ta lấy phổi ra ngoài như
tôi nghe?
Ông ta có thể sẽ
trả lời với một chút chế nhạo, một chút tự kiêu – có lẽ là cách để quyến rũ phụ
nữ – và tôi tin rằng nếu ông ta đã làm thế thì tôi sẽ mặc áo choàng lên và bước
ra ngoài trong trời lạnh. Và có lẽ ông ta cũng biết thế. Ông bắt đầu nói về
cách thức làm xẹp lá phổi nhiễm bệnh lao và tái tạo lồng ngực, giải thích việc ấy
như thế nào, mặc dù thật chẳng dễ dàng gì cho những bệnh nhân có phổi bị xẹp.
Ngạc nhiên thay, kiến thức này là điều mà Hippocrates cũng đã biết tới. Tất
nhiên là việc cắt bỏ thùy phổi cũng đã trở nên phổ biến gần đây.
“Bác sĩ có để mất
nhiều bệnh nhân không?” Tôi nói.
Ông ta nghĩ có lẽ
đây là lúc có thể đùa một chút.
“Tất nhiên là
có. Họ bỏ chạy và trốn tịt trong bụi rậm, không biết chạy tới đâu – có lẽ cũng
có người lao thẳng xuống hồ nước – hay cô có ý nói là có ai chết không? Có những
ca mổ không thành công. Đúng thế.”
Nhưng những tiến
bộ y học cũng đang xảy ra, ông bảo. Loại phẫu thuật mà ông ta đang thực hành sắp
trở thành lỗi thời, cũng tương tự như cách thải máu độc để chữa bệnh. Một loại
kháng sinh mới sắp được sử dụng có tên là Streptomycin đã được dùng trong một số
thử nghiệm. Có một vài vấn đề, thật ra thuốc nào chẳng có. Sự ngộ độc đối với hệ
thần kinh chẳng hạn. Nhưng cũng có cách để đối phó với các tác dụng phụ này.
“Khiến cho những
bác sĩ thế hệ già như tôi đây bị mất việc.”
Ông rửa bát, tôi
lau khô. Ông quàng một cái khăn lau bát quanh thắt lưng tôi để khỏi ướt áo đầm.
Khi mọi chuyện xong xuôi, ông đặt một bàn tay lên lưng tôi. Một sức ép mạnh mẽ,
những ngón tay xòe ra – như thể đang tiếp thụ từng phần cơ thể tôi một cách
chuyên nghiệp. Khi tôi lên giường nằm ngủ vào tối hôm đó tôi vẫn còn cảm nhận
được sức ép đó. Tôi cảm được sức mạnh lan từ ngón út đến ngón cái của ông. Tôi
thích thú. Điều ấy còn quan trọng hơn là nụ hôn được đặt lên trán tôi sau đó
vào lúc tôi bước ra khỏi xe hơi của ông bác sĩ. Một nụ hôn với đôi môi khô lạnh,
ngắn, nghiêm trang, được đặt lên tôi với quyền lực chóng vánh.
(Còn tiếp một kỳ)
No comments:
Post a Comment