Tác giả Phạm Đức Nhì
TIÊU CHÍ 3: TÍNH NHẤT QUÁN CỦA TỨ THƠ
Hai Bản Nhạc Khai Vị
1/ Mỗi năm cứ đến giữa tháng 12 là các đài truyền thanh, truyền hình Việt ngữ, các nhà thờ, các Mall, các trung tâm sinh hoạt của người Việt lại rầm rộ phát nhạc Giáng Sinh. Tôi chú ý đến bản nhạc Đi Tìm Chúa Tôi vì có 2 câu đầu, theo tôi, tác giả viết hơi vội, hơi ẩu hoặc vô ý.
Này một hài nhi vừa sinh ra đời Hãy đến mau kính dâng lạy người
Tại sao thấy hài nhi sinh ra đời lại phải đến dâng lạy? Như thế thì (chỉ riêng ở Houston) một ngày phải lạy biết bao nhiêu hài nhi? Nếu hai câu ấy nằm ở giữa bài thì không nói làm gì. Thính giả ít nhất cũng đã được dẫn dắt vào khung cảnh ngày lễ và hiểu được là hài nhi được nói đến chính là Chúa Hài Đồng. Đàng này chưa biết ất giáp gì đã bị hối thúc đi lạy hài nhi. Những người không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo sẽ thấy ngỡ ngàng, gai gai khó chịu. Mà ngay đối với con dân Chúa cũng thấy chướng; một bài hát về đạo mà vô ý đến độ gây phản cảm.
1/ Mỗi năm cứ đến giữa tháng 12 là các đài truyền thanh, truyền hình Việt ngữ, các nhà thờ, các Mall, các trung tâm sinh hoạt của người Việt lại rầm rộ phát nhạc Giáng Sinh. Tôi chú ý đến bản nhạc Đi Tìm Chúa Tôi vì có 2 câu đầu, theo tôi, tác giả viết hơi vội, hơi ẩu hoặc vô ý.
Này một hài nhi vừa sinh ra đời Hãy đến mau kính dâng lạy người
Tại sao thấy hài nhi sinh ra đời lại phải đến dâng lạy? Như thế thì (chỉ riêng ở Houston) một ngày phải lạy biết bao nhiêu hài nhi? Nếu hai câu ấy nằm ở giữa bài thì không nói làm gì. Thính giả ít nhất cũng đã được dẫn dắt vào khung cảnh ngày lễ và hiểu được là hài nhi được nói đến chính là Chúa Hài Đồng. Đàng này chưa biết ất giáp gì đã bị hối thúc đi lạy hài nhi. Những người không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo sẽ thấy ngỡ ngàng, gai gai khó chịu. Mà ngay đối với con dân Chúa cũng thấy chướng; một bài hát về đạo mà vô ý đến độ gây phản cảm.
2/ Mới đây, khi tra cứu để viết Những Tiêu Chí Để Thẩm Định Giá Trị Một Bài Thơ tôi tình cờ nghe bản nhạc Bài Thánh Ca Buồn của Nguyễn Vũ, có đoạn:
Lời nguyện mình Chúa có nghe không Sao bây giờ mình hoài xa vắng? Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian Bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu
Trong đó 2 câu sau – dựa trên bề mặt của con chữ – có nghĩa là “Mỗi năm Chúa xuống dương gian một đêm và bao nhiêu đêm Chúa Xuống dương gian là bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu.” Như vậy thì bậy quá!. Chúa chỉ Giáng Sinh một lần; những năm sau đó là con người tổ chức kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh chứ đâu phải năm nào Chúa cũng xuống dương gian đâu! Mà giả dụ năm nào Chúa cũng Giáng Sinh thì cũng chẳng thể “bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu” được. Chúa Giáng Sinh (lần đầu!) từ mấy ngàn năm trước, anh với người yêu giỏi lắm chỉ được mấy chục cái xuân xanh, thì làm sao “bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu?” Rõ ràng nội dung của đoạn ca từ “câu nọ cãi cọ với câu kia”, chẳng hợp lý tý nào.
Bài Thơ “Hai Chàng Trai”
Trên đường có nhị chàng trai
Đầu râu tóc bạc cỡi hai ngựa hồng
Ngựa thời trắng toát như bông
Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay
Những mâu thuẫn về ý trong đoạn thơ:
a/ Chàng trai mà “đầu râu tóc bạc”
b/ Ngựa hồng mà “trắng toát như bông”
c/ Đường cát trắng mà “bụi hồng tung bay”
Trên đây là bài thơ vui nói lên một lỗi sơ đẳng của thơ là ngôn từ, ý tứ không nhất quán, có mâu thuẫn nội tại, “câu sau chửi cha câu trước”.
Buổi Sáng - Nắng Và Em
Sáng nay gọi nắng ra sân
Nắng theo em đến khắp trần gian vui
Nhìn em ngơ ngác nắng cười
Hôn lên đôi má hồng tươi mầu vàng
Em nhìn nắng chiếu miên man
Bỗng dưng lòng thấy chứa chan yêu đời.
Đây là bài thơ, có lẽ của một em học sinh, tôi đọc được từ nhiều năm trước, thấy dễ thương nên chép lại để bàn thơ cho vui. Sau đây là những điểm “thiếu nhất quán”:
a/ Em chỉ đi quanh quẩn trong sân thì làm sao nắng có thể “theo em đến khắp trần gian” được. Hơn nữa đối với trần gian (quả đất) thì nắng chỉ đến được một nửa thôi; nửa kia là ban đêm.
b/ Em chủ động “gọi nắng ra sân” mà sao lại “ngơ ngác”
c/ “Nắng chiếu miên man” không hợp với tâm trạng “chứa chan yêu đời”
Qua hai bài thơ ngắn tôi xin tạm kết luận: Nếu khả năng diễn đạt của tác giả kém, để ý tứ trong bài thơ không nhất quán, có nhiều mâu thuẫn nội tại, bài thơ bị độc giả loại ngay từ lần đọc đầu tiên. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ.
Thực tế thì độc giả rất ít khi phải đọc những bài thơ quá non kém như thế. Thi sĩ bước vào sân chơi Thơ là đã chuẩn bị đầy đủ lưng vốn. Câu văn, câu thơ nếu chưa được hay thì cũng đã “sạch nước cản”. Có thể một giây phút lơ đãng nào đó tác giả vô tình để một hai chi tiết nhỏ mâu thuẫn hoặc không hợp với kịch bản của bài thơ. Nếu bài thơ có tầm vóc thì những người làm công việc phê bình sẽ vạch ra. Còn những bài thơ “thường thường bậc trung” thì tự động sẽ đi vào quên lãng
Một Câu Ca Dao
Trai tơ mà lấy nạ dòng
Như nước mắm nhĩ chấm lòng lợn thiu
Có người sửa lại:
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu
và giải thích rằng “Nước mắm thối chấm lòng lợn thiu ăn chán lắm, giống như trai tơ mà lấy nạ dòng vậy.” Theo tôi, nói như thế là không đúng. Trai tơ là “đồ xịn” mà chơi với nạ dòng là “đồ dởm” thì uổng, cũng giống như nước mắm nhĩ là “đồ xịn” mà đem chấm lòng lợn thiu là “đồ dởm” thì phí quá. Do đó, phải giữ nguyên “nước mắm nhĩ” mới hợp với logic của ý câu ca dao.
Chữ Vui Làm Buồn Bài Thơ
NIỀM TIN
Lại một NOEL nữaMấy mùa Giáng Sinh rồi
Anh ở đồn biên giới
Thuơng về một khung trời
Anh ở đồn biên giới
Thuơng về một khung trời
Chắc Ðà lạt vui lắmMimosa nở vàng
Anh đào khoe sắc thắm
Huơng ngào ngạt không gian
Anh đào khoe sắc thắm
Huơng ngào ngạt không gian
Mấy mùa Giáng Sinh truớcChỗ hẹn anh chờ hoài
Lần này không về đuợc
Hồi hộp đợi tin ai
Lần này không về đuợc
Hồi hộp đợi tin ai
Em biết chăng đời línhNắng sớm với sương chiều
Gió rừng rồi mưa núi
Ðã làm anh vui nhiều
Gió rừng rồi mưa núi
Ðã làm anh vui nhiều
Radio mở sẵn
Ðón thanh lễ truyền thanhXin CHÚA ban ơn xuốngCho em và cho anh
Ðón thanh lễ truyền thanhXin CHÚA ban ơn xuốngCho em và cho anh
Cùng cầu cho thế giớiCho nhân loại hoà bình
Cho đôi ta gặp lại
Trong một mùa Giáng Sinh
Cho đôi ta gặp lại
Trong một mùa Giáng Sinh
nhấttuấn (1960) Anh Linh phổ nhạc
Tôi đến với Niềm Tin đầu tiên qua giai điệu nhạc của Anh Linh trước khi biết bài thơ gốc của Nhất Tuấn. Nghe bài nhạc đến đoạn “đã làm anh vui nhiều” tự nhiên tôi thấy chối tai, cảm xúc trong tâm hồn đang trôi theo tiếng hát bỗng khựng lại. Lòng tự hỏi “Trong khung cảnh đó tại sao lại “vui” nhỉ? Mà lại “vui nhiều” mới lạ chứ! Đã từng là anh lính chiến, đóng quân ở rừng sâu, núi cao, tôi đã biết thế nào là
Nắng sớm với sương chiều
Gió rừng và mưa núi
theo đúng nghĩa đen của từng chữ. Tôi quen với khung cảnh ấy, sống trong hoàn cảnh ấy không phải vài ngày, vài tuần mà tháng này qua tháng khác. Những lúc ấy ngồi trong lều nhìn cảnh núi rừng - từ sĩ quan đến lính - mắt thằng nào cũng như đang lạc vào một cõi xa xăm, mặt thằng nào cũng dài thuỗn ra, buồn rười rượi. Dĩ nhiên đời lính ở rừng sâu núi thẳm cũng có những lúc vui - những niềm vui nho nhỏ do người lính tự tạo ra - để quên nỗi nhớ thương quay quắt và để … sống. Nhưng chỉ cần một cái gì đó rất nhỏ nhặt gợi lên kỷ niệm với người thân thì từ sâu trong tâm hồn của họ nỗi buồn chia xa đang đầy ắp sẽ trào ra như thác đổ.
Câu “Đã làm anh vui nhiều” khiến Niềm Tin đang là tâm tình của người lính xa nhà bỗng trở thành một bài thơ, bài hát “phải đạo” (politically correct). Lời thơ, tiếng nhạc đang là những cảm xúc chân thật của con người bất chợt biến thành những lời đầu môi chót lưỡi, dối người và tự dối lòng mình.
Hơn nữa, xét về kỹ thuật thơ thì câu “Đã làm anh vui nhiều” là câu thơ “tréo cẳng ngỗng” lội ngược chiều với dòng chảy lững lờ buồn bã của tứ thơ.
Đúng là chữ “vui” đã làm buồn bài thơ.
Cô Vũ Thị Khánh Dần, cựu giáo viên trường CĐSP Hà Giang, đã bình phẩm “Đúng là câu thơ làm hỏng tứ thơ, vì nó không phù hợp với logic tình cảm hay dòng chảy cảm xúc của con người. Chỉ khi nắng cháy, hạn khô thì mới có thể vui khi mưa gió. Thi sỹ Huy cận đã viết bài thơ rất nổi tiếng về nỗi buồn thê thiết đêm mưa, trong nỗi cô đơn của con người khi ý thức về cá nhân trước cuộc sống, vậy mà làm sao có thể ‘vui nhiều’ được khi có ‘gió núi mưa rừng’; tôi không tin điều đó.” (Facebook Dan Khanh)
Anh Bằng Sửa Thơ Yên Thao
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng giặc đóng
là 2 câu mở đầu trong bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao.
Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng lửa khói
Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú. Trước hết, đưa cụm từ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!” Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay cụm từ trên.
Chăn Trâu Đốt Lửa
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
(Chăn Trâu Đốt Lửa, Đồng Đức Bốn)
Đạo quân chính trong trận Chăn Trâu Đốt Lửa - hồn cốt của bài thơ (tứ thơ) - nằm trong 2 câu cuối:
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
Hai câu đầu là phần dẫn nhập, cái cớ để tứ thơ xuất hiện, làm nhiệm vụ yểm trợ:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều.
Trong bài Lục Bát Và Chăn Trâu Đốt Lửa ông Nguyễn Lâm Cúc đã viết:
Khung cảnh trong bài thơ là cánh đồng miền Bắc, nơi mà dù vụ gặt vừa mới xong rạ rơm cũng không còn lại bao nhiêu, vì suốt cả một vùng đồng bằng dọc theo châu thổ sông Hồng, người nông dân quí rạ không khác gì sản phẩm khác. Họ tận thu rơm rạ để làm thức ăn cho trâu, bò; để đun nấu, để làm vách đất nữa. Vì vậy, cánh đồng sau vụ gặt mùa Đông chỉ còn rất nhiều gió và cái lạnh thấu xương. (http://nguyenlamcuc. vnweblogs.com/print/2509/ 129996)
Trong bài “Chăn Trâu Đốt Lửa”: Sâu Sắc Một Triết Lý Nhân Sinh nhà phê bình Đức Thọ cũng đề cập đến sự hiếm hoi của rơm rạ sau vụ gặt Đông:
Câu thơ thứ hai nhà thơ khẳng định “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều”. Đúng vậy, trong mùa hanh heo mà đã gió đông thì khi thổi cháy bao nhiêu rơm rạ cho vừa. (http://lucbat.com/news.php? id=3470)
Trong đầu tôi tức khắc hiện ra câu hỏi: Trong hoàn cảnh đó làm sao có đủ than lửa để củ khoai cháy thành tro được?
Tôi có điện thoại hỏi một ông chú họ xa ở ngoại thành Hà Nội thì được cho biết: Nếu chịu khó kiếm cành khô, củi mục ở nơi khác gom lại thì với chút ít rơm rạ còn sót ở cánh đồng cũng có thể tạo được “bếp lửa” để nướng khoai nhưng phải chăm chút, che chắn cẩn thận, chứ như thi sĩ của chúng ta “Mải mê đuổi một con diều” thì chỉ chốc lát là rơm rạ đã bay tung tóe, lửa tắt, củ khoai chưa chắc đã chín chứ làm gì có cái cảnh “Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.” Mà dù - cứ cho là với cái tài gầy bếp đặc biệt của trẻ chăn trâu - củ khoai nướng đã thực sự thành tro thì theo tôi, câu thơ “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” cũng đã “đi ngược đường” với tứ thơ.
Trong chiến tranh đôi khi có những người lính làm nội gián cho địch để cản trở, để phá hoại việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp Chăn Trâu Đốt Lửa thì “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” chính là câu thơ nội gián. Không những nó không giúp làm tăng độ khả tín, sức thuyết phục của tứ thơ mà ngược lại, đã trở thành một chướng ngại vật ngăn cản hành trình qua đó độc giả tiếp cận tứ thơ để rồi đi đến chỗ đồng cảm với tác giả.
Tạo ra và dung dưỡng một câu thơ nội gián, theo tôi, là một lỗi nặng của thi sĩ. Tùy mức độ khắt khe của độc giả, bài thơ có thể bị đánh giá là hỏng, giảm giá trị nghệ thuật hoặc chí ít cũng là không được hay đẹp trọn vẹn.
Chữ “Níu” Trong “Nếu Anh Còn Trẻ” Của Hoàng Cầm
Tôi đã tốn khá nhiều thời gian để trả lời bạn đọc về chữ “níu” này. Hôm nay tình cờ đọc được bài thơ của Xuân Quỳnh cũng nói đến cái ý đó nên nhân tiện bàn thêm vài lời. Chúng ta hãy nghe nữ sĩ Xuân Quỳnh tâm sự:
Mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc
Nỗi vui buồn cũng khác những ngày xưa
Chi chút thời gian từng phút từng giờ
Như kẻ khó, tính từng hào keo kiệt
(Có Một Thời Như Thế, thivien.net)
Khi “mái tóc xanh bắt đầu pha sợ bạc”, quỹ thời gian không còn nhiều nữa thì việc“chi chút thời gian từng phút từng giờ/ Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt” là cần thiết; “níu xuân xanh” đưa vào hoàn cảnh ấy là hợp tình hợp lý, người đọc ai cũng có thể thông cảm và chấp nhận dễ dàng. Còn như Hoàng Cầm, mới 19 tuổi đã viết:
“Nếu anh còn trẻ như năm ấy” (1)
nghĩa là xuân xanh còn dài đằng đẵng, không chịu ung dung hưởng thụ mà lại:
“Anh đàn em hát níu xuân xanh”
thì đúng là tính khí của anh nhà giầu keo kiệt - tiền đầy túi mà chi li từng xu, từng hào. Cách ứng xử ấy chẳng nên thơ tí nào nếu không muốn nói là rất xấu. Chữ “níu” không những không hay mà lại còn không đúng nữa.
Chuyện Sửa Thơ Xuân Quỳnh
Sau khi bài viết Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu lên đường được mấy ngày tôi nhận được vài thư góp ý trong đó thư của anh Phan Hồng Ngọc từ Sài Gòn đã gây cho tôi sự chú tâm đặc biệt. Nội dung thư như sau:
Thưa ông Phạm Đức Nhì,
Trong bài Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu ông viết:
Phép ẩn dụ của bài thơ, nếu tinh ý, người đọc có thể nhận ra sau khi đọc 2 đoạn đầu. Còn nếu “chậm tiêu” một tý thì từ từ rồi cũng thấy, cũng hiểu. Thuyền là chàng, biển là nàng, bài thơ là chuyện tình yêu của chàng với nàng, nàng là tác giả, là nhân vật chính trong bài thơ. Trong đoạn thơ:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gởi tâm tư
Bên mạn thuyền sóng vỗ
thì biển là cô gái (ẩn dụ) cho nên trong câu “Biển như cô gái nhỏ” chữ “như” không những đã thừa, gây cảm giác “không thoải mái” cho người đọc mà lại còn làm lộ phép ẩn dụ nữa. Nếu tác giả chọn được cách nói khác, không nhắc gì đến cô gái mà vẫn diễn tả được cái ý ấy thì hay hơn.
Tương tự như vậy, trong đoạn thơ:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên!)
Tác giả quên rằng mình đang đóng vai Biển với thân hình và bộ mặt (đã hóa trang) của Biển. Ngôn ngữ rất riêng, rất lạ của Biển và Thuyền đang thu hút sự chú ý của độc giả. Tự nhiên buột miệng nói ra “tiếng người” khiến vai diễn của vở kịch trở thành bất nhất. Hai câu sau nếu tránh được từ “tình yêu” mà vẫn giữ được ý ấy thì quá hay.
Theo gợi ý của ông tôi đã lò mò mấy ngày mới nghĩ ra được cách tránh mấy từ mà ông đã cẩn thận cho in chữ đậm ở 2 đoạn thơ trên. Và đây là 2 đoạn thơ có bàn tay sửa chữa của tôi:
Những đêm trăng hiền từ
Biển thầm thì to nhỏ
Những điều rất riêng tư
Bên mạn thuyền sóng vỗ.
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Nên thuyền trên mặt biển
Có bao giờ được yên!
Xin ông - dưới con mắt của một người bình thơ – cho biết ý kiến. Chân thành cảm ơn ông trước.
Ký tên Phan Hồng Ngọc.
Thư qua thư lại vài lần, được sự đồng ý của anh Ngọc, tôi viết bài này trước là trả lời anh Ngọc, sau là bổ khuyết cho bài bình thơ của tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi khi nhận thư là yêu cầu anh thay chữ “được”. Lý do: viết như thế là gieo tiếng “ác” cho phụ nữ, ám chỉ các nàng luôn hành hạ các đấng nam nhi (cả trong nghĩa chăn gối yêu đương lẫn không khí xào xáo trong gia đình), lúc gần nhau, chẳng bao giờ cho phép họ được yên. Anh PHN cũng đề nghị chữ “chịu” nhưng theo tôi thì nếu bảo:
Nên thuyền trên mặt biển
Có bao giờ chịu yên
trước hết, nghịch ý với 2 câu “Cũng có khi vô cớ/ Biển ào ạt xô thuyền. Theo Xuân Quỳnh thì Biển là tác nhân đối với tình trạng không yên của thuyền, nghĩa là thuyền ở thế thụ động nên không có quyền quyết định “chịu” hay không “chịu”. Hơn nữa, nói như thế là gieo tiếng “quậy” rất bất công cho phía nam giới.
Cuối cùng chúng tôi đồng ý giữ nguyên từ “đứng yên” của tác giả vì nó trung tính. Thuyền trên mặt biển không đứng yên là do lẽ tự nhiên của trời đất, “không phải tại anh cũng không phải tại em” mà do “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Và bây giờ xin bàn đến kết quả sửa thơ của anh Phan Hồng Ngọc.
Đoạn thứ 3 của bài thơ được sửa lại thành:
Những đêm trăng hiền từ
Biển thầm thì to nhỏ
Những điều rất riêng tư
Bên mạn thuyền sóng vỗ.
Cô gái không được nhắc tới nhưng vẫn hiện diện trong đoạn thơ (dưới cái tên Biển); trong khi đó cả tứ lẫn ý cũng như âm điệu của bài thơ vẫn được giữ nguyên theo đúng ý của tác giả. Ở đoạn thứ 3 này công việc sửa thơ của anh PHN đã đạt được mục đích của mình, đã thành công mỹ mãn.
Đoạn thứ 4 của bài thơ được sửa lại thành:
Cũng có khi vô cớ
biển ào ạt xô thuyền
nên thuyền trên mặt biển
có bao giờ đứng yên!
Đúng như anh Phan Hồng Ngọc dự tính, cách nói, suy nghĩ của “con người” đã biến mất. Thay vào đó là một thứ ngôn ngữ rất “Thuyền Và Biển”, rất hay và rất lạ. Âm điệu của bài thơ không thay đổi và ý của tác giả vẫn được giữ nguyên. Hay hơn nữa là 2 câu:
Nên thuyền trên mặt biển
Có bao giờ đứng yên.
lại rất khêu gợi, rất “tình”, đã bóng gió diễn tả cái cảnh “yêu nhau” của đôi trai gái. Ở đây việc sửa thơ của anh PHN không những đã chữa được chứng bệnh “lộn xộn trong phép ẩn dụ” mà còn làm cho đoạn thơ càng đáng yêu hơn nữa.
Như vậy, xin được trả lời anh Phan Hồng Ngọc: Dưới con mắt của một người bình thơ, việc sửa thơ của anh rất tuyệt. Cám ơn anh đã gởi thư góp ý.
Áp Dụng Tiêu Chí 3
Nên đọc bài thơ nhiều lần để tứ thơ có thời gian (ít nhất một tuần) thấm thật sâu vào người rồi hãy viết lời bình. Trước khi áp dụng tiêu chí 3 hãy đọc thêm một lần thật chậm. Nếu gặp điểm nào không hợp tình hợp lý thì vạch ra rồi giải thích và chứng minh tại sao nó không hợp lý hợp tình. Sau đó xem mức độ ảnh hưởng của khuyết điểm đó đối với bài thơ nặng hay nhẹ, nhiều hay ít, rồi viết nhận định của mình ra. Chú ý cân nhắc sức nặng của ngôn ngữ cho chính xác. Đừng quên đem nó vào để “trừ điểm” trong phần đánh giá chung cuộc.
Đọc không kỹ, bỏ sót những “mô, gò”, vật cản trên dòng chảy của tứ thơ rồi lại cao hứng khen “quá đà”, người khác thấy được chỉ ra thì … ê mặt.
Nếu thấy ý tứ thật sự suôn sẻ, dòng cảm xúc chảy trơn tru, không có vật cản giữa đường thì có thể viết vài câu khen ngợi bằng ngôn ngữ riêng của mình. Sau đây là vài gợi ý:
1/ Cấu trúc thơ mạch lạc, trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm.
2/ Tâm trạng diễn biến hợp lý, hợp tình.
3/ chức năng truyền thông của bài thơ thành công.
4/ Dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, tứ thơ như ngựa phi bon bon trên đường. (Có những bài thơ trong đó tứ thơ phân mảnh, đứt đoạn mà hoàn toàn không có chỗ nào có câu chữ “ngược đường” hoặc mô, gò cản trở. Phân mảnh, đứt đoạn là do bó buộc của thể thơ.)
5/ Có chữ “đắt”, “đắc địa” (rất hợp, rất hay, không thể thay bằng chữ nào khác), chỉ ra rồi giải thích và chứng minh. Không nên như một nhà phê bình khi bình bài Phương Xa của Vũ Hoàng Chương đã phán “bài thơ … đắc địa đến từng chữ một”. Phán như vậy là “liều mạng”, sai đến 99, 99%.
Kết Luận
Áp dụng tiêu chí này phải hết mực cẩn thận. Khen chê không đúng, đặc biệt là chê (ngay cả khi chê đúng) sẽ gặp phản ứng mạnh từ những người yêu thích bài thơ đó. Muốn chắc ăn, đặc biệt là những bài bình đầu tiên, nên tham khảo ý kiến vài người bạn (có kiến thức và kinh nghiệm hơn mình) để vững bụng trước khi viết hoặc trước khi phổ biến. Chuẩn bị tinh thần để bước vào tranh luận
Đây là một trong vài tiêu chí cần đến một chút kiến thức và bản lãnh của người bình. Đụng vào tiêu chí này người bình phải quyết đoán, không thể nói lơ lửng nước đôi. Nhưng càng nhiều rủi ro phần thưởng càng hậu hĩ (high risk, high reward). Đúng vài lần bạn sẽ tự tin hơn, bài viết của bạn sẽ đi vào trọng điểm hơn, và dĩ nhiên, sẽ được độc giả yêu mến và tìm đọc nhiều hơn.
Phạm Đức Nhì
Chú Thích:
1/ Toàn văn đoạn thơ:
Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh
1 comment:
Tôi nhận được thư góp ý của anh Phú Đoàn như sau:
"Bài thơ "Nếu Anh Còn Trẻ" như bạn đề cập (tựa đề này của bài thơ khá phổ biến trên mạng). Thực ra, tựa đề gốc của bài thơ là THU XA của Hoàng Cầm, khi Phạm Duy phổ nhạc thì mang tựa đề là TÌNH CẦM. Nếu quý bác còn giữ các tập san VĂN, VĂN HỌC, BÁCH KHOA trước năm 1975, số viết về Hoàng Cầm sẽ thấy một số bài viết về bài thơ THU XA này."
Tôi có biết tựa bản Tình Cầm do Phạm Duy phổ nhạc và đổi tên. Còn tên gốc của bài thơ là Thu Xa thì tôi không biết. Thành thật cám ơn anh Phú Đoàn đã tra cứu kỹ lưỡng và gởi cho những thông tin bổ ích.
Post a Comment