Tác giả Lâm Bích Thủy
NÀNG THƠ
Nhà
thơ Xuân Diêu quan niệm “Là thi sĩ nghĩa
là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây..” Ba tôi là thi sĩ, có lẽ
ông cũng vậy chăng?! Có người hỏi ông:
PV.-“Người ta thường nói thi sĩ rất đa tình, vậy
với ông?”
YL: “Tôi chưa bao giờ mở lời nói với bất kỳ người
phụ nữ nào là – Em đẹp lắm, anh yêu em vô cùng. Tôi chỉ tỏ bằng ánh mắt và
những vần thơ nhớ nhung. Vì thế tôi đã đánh mất rất nhiều tình yêu, chỉ vì nhìn
thôi nên qua luôn”
Thường tình lúc nhỏ, ba tôi hay kể chuyện cổ tích, chuyện ngụ ngôn trước khi
chúng tôi ngủ. Nhưng khi chúng tôi bước vào tuổi dậy thì, thì má tôi lại hay kề
về các nàng thơ của ba. Các nàng thơ ấy lần lượt, từng người một, lãng
mạn chui ra từ những bài thơ tình của ba tôi
1/ Em Cúc
Nàng thơ đầu tiên của
ba là cô láng giềng, tên Bạch Cúc. Nhà cô Cúc và nhà thi sĩ châu lưng vào nhau.
Muốn qua lại thăm nhau phải đi vòng.
Từ cửa nhà
em đến ngõ nhà anh
Phải vòng qua một quãng đường quanh
Nhưng vườn sau lại liền không đất
Chỉ cách nhau ra một bức thành
Tên Bạch Cúc không hợp với cô tí nào. Người cô cao to;
mắt màu hạt dẻ, lông mi dày, cong, tóc hoe vàng lẫn lộn như Tây. Chắc hẳn trong
dòng máu nhà cô có pha ¼ máu ngoại?
Nhà cạnh nhau, hai người lớn lên, trêu đùa tự nhiên, giản
dị như cây trái sau vườn nhà họ :
Phía dưới
mồng tơi níu giậu lên
Ti-gon nở đỏ dọc hàng trên
Chim quyên chuyền động hai triền
lá
Tơ nhệnh sương lồng thấm mỗi bên
Cây trái hai
nhà, vườn giao nhánh nhau
Phía anh lê,
lựu, phía em đào
Đến ngày trái
chín bên này hái
Đưa biếu bên kia
lứa quả đầu
Xa nhau mặt
trước khó trông nhìn
May được gần sau
dễ gọi tìm
Con bướm, cái
hoa chung quyến rũ
Cách rào tay vẫn
chạm hồn nhiên
(Gần
nhà xa ngõ)
Ngày
này, tháng nọ đi qua, họ lớn lên, tình cảm cũng theo thời gian đổi thay. Tình
cảm yêu đương ấy được diễn tả bằng thơ như sau: Ngày tháng dồn em nét dậy thì / Anh qua lứa tuổi đáo cùng bi / Bức
tường rêu biếc không cao nữa / Dấu bám bằng tay đã phẳng lì / Một hôm mang trả
sách em đòi / Cành khế đu lên lúc vắng người / Anh bỗng thấy em bên bệ giếng / Cầm thỏi son chị,
lén tô môi/Động tiếng anh cười rung rụng quả/Em bụm đôi tay che kín má / Vẫn không giấu được điểm son in/Hình đóa
Ti-gon tô vội vã / Từ đó xưng hô cứ lững lơ / Đêm nằm thoảng thấy lại trong
mơ/Thế rồi bẽn lẽn, rồi thô vụng /Qua bức tường ngăn gởi, nhận thơ/
Tình trẻ thơ ngây, trong trắng chả giấu được
ai / Ấy thế cho nên hàng xóm biết / Lời ong tiếng nhặng vẳng loang mau / Ra vào
cổng trước xưa nay ít / Giờ lại kiêng dè cả giậu sau...
Bẵng đi một thời gian, chàng không gặp cô gái nhà bên soi mặt ở giếng nữa.
Chàng nhận ra hạnh phúc này không dành cho những chàng trai nhà nghèo như anh, và thơ rắng:
Thói
thường đăng đối cuộc nhân duyên / Cha mẹ em giàu dễ để yên / Cho một lứa đôi
không xứng vế / Dập ngay ngọn lửa mới vừa nhen. Rồi, một hôm chàng thấy nhà bên
có rất đông người ra vào. Thì ra cha mẹ
Cúc vội gả chồng cho con:
Đang lúc mùa thu ngập lá rơi
Chồng xa bỗng đến đón em rồi
Cây hai vườn vẫn giao cành lá
Chỉ có mình anh đứng lẻ loi.
Chàng nhận ra và ý thức được thói đời phân
biệt giàu nghèo của xã hội phong kiến:
Giận cái ngây thơ tự lúc đầu Thấy
rằng tường giậu chẳng ngăn nhau
Ai hay rẽ thúy chia uyên ấy / Còn bức thành cao giữa khó, giàu.
Cũng từ đó họ không còn gặp nhau lần
nào nữa “Đường ai nấy đi”.
2/Em Chẩn
Khoảng năm 1942, chú Chế ra Thanh Hóa dạy học,
bác Tấn áy náy, thương Yến Lan ở quê đơn độc, nên đánh giây thép nhắn ông vào
Nha Trang cùng nhau nghiên cứu thơ Đường, thơ Tây. Bác Tấn là người giao thiệp rộng, nặng tình
với bạn Bác xem ba tôi như em trai. Bởi,
khi có mặt ba gia đình bác vui vẻ và đầm ấm hẳn lên. Sợ bạn ở lâu nhớ nhà và
nhàm chán, bác vận động các em quanh Phố Chợ đến học thầy Lang. Đó là thời gian
ba tôi ở Nhà Trang lâu nhất mà không áy náy vì “Ăn chực nằm chờ”. Ngoài giờ
lên lớp, hai anh em tranh luận về quan điểm chính thống, tiếp cận với nền văn
hóa thế giới...
Sáng nọ, bất chợt một cô gái trẻ xuất hiện.
Cô khoảng 18 tuổi, mảnh dẻ, lả lướt, khuôn mặt đặc trưng của thiếu nữ Nha
Trang. Đôi mắt lúng liếng, môi trên mỏng và nhỏ hơn toát lên vẻ bướng bỉnh, dễ
thương ... Cô cũng khá ngỡ ngàng khi nhìn thấy chàng trai trông rất trí thức và
điển trai. Cô liếc nhìn rồi tự nhiên má ửng hồng!.. Từ đó, cứ sáng nào cô cũng
sang nhà bạn chơi, khác với trước đây lâu lâu mới tới. Bác Tấn nhận ra cô gái
đã thích anh chàng bạn mình nên ngầm theo dõi diển biến. Thấy cô gái chú ý đến
anh, bác nói bâng quơ như cố tình cho cô biết rõ: “Đó là thi sĩ Xuân Khai-bạn thân của tui đấy... ”. Còn, với anh bạn
thì bác lửng lờ “Tên cô ấy là Chẩn, gia
đình giàu sụ, mẹ bán vàng trong Chợ Đầm…” Chàng thi sĩ cũng nhận ra là cô
gái thích mình
Đêm xưa-không,
chẳng có đêm xưa
Vì nhớ nhung
không cũ bao giờ,
Tình yêu bỗng
dậy hương màu nhiệm,
Giờ của hương
lòng xây lối mơ.
Chàng, chẳng
chàng thì mới phải ai
Là người,
rồi gặp một ban mai,
Là người,
đọc sách, nàng mơ tưởng
Có, có nhiều
duyên - có có tài.
Ngày gặp
chàng như phiếm nhị hồ
Gặp bàn tay
đã gãy ra mơ.
Nàng yêu
chàng bởi chàng giông giống
Kẻ đã chưng
hình trong sách thơ
Cô Mộng Lan, em bác Tấn vẻ hiểu đời: “Nếu mày đã thật lòng thương ảnh thì để tao lo cho, ảnh là bạn thân của anh tao mà” Rồi cô giúp thật, tất cả thư bạn nhờ, cô kín đáo trao tận
tay chàng, không để lọt lá nào.
Chàng thi sĩ vốn
lãng mạn, mỗi
lần bắt gặp đôi mắt đen lúng liếng liếc nhìn, lòng chàng cũng thấy xốn xang. Nhưng nghĩ đến sự
giàu có của nhà nàng, chàng không dám nghĩ đến sự đáp lại cái tình mà nàng
hiếng dâng!
Nhưng chàng đâu
phải gỗ đá, tình cảm mà cô Chẩn dành cho chàng cứ mỗi ngày một thấm
vào lòng như mưa dầm thấm đất. Chàng tự nhũ người ta thương mà mình không thương lại, cũng tội lắm!
Hương tự nơi nào
đáp tới hoa
Hay em bên ấy
dưới trăng tà
Thấy anh tha
thẩn quanh vườn lạnh
Hé chút lòng
riêng lén gửi qua
Từ ấy theo hương
để nhận người
Ngỡ đâu hương ấy
tự hoa thôi
Ra đi đã hết
thời trai trẻ
Dễ phải tìm ai
đến trọn đời
(Hương
tự hoa)
Ngày chàng trở về quê. Biết khó gặp lại, Chẩn
buồn lắm! Những lá thư nặng triễu tình cảm của cô liên tục đến tay anh. Nhưng thước
đo của sự giàu, nghèo đã cản trở tình cảm giữa họ. Cha mẹ Chẩn không thể chấp
nhận một anh chàng mà cuộc sống đang nương nhờ ở một ngôi chùa. Song trớ trêu
thay, gia đình cô càng cấm, Chẩn càng yêu chàng; vì “quả cấm là qủa ngon” mà!
Em cũng đến chia
phần thương nhớ
Đón đầu xe trong
lớp bụi đường
Tưởng tất cả lùi
vào dĩ vãng
Lại hiện về với
dáng âm vang
Ôi lúc ở thường
tình bảng lảng
Giờ cách xa lại
thắm thiết lạ thường
( Trích: Em
Chẩn- 1942)
Có
một bức thư cô Chẩn gửi cho ba tôi không hiểu sao vẫn nằm ở chỗ cô Mộng Lan? và
má tôi đã đọc. Bà nhớ nội dung bức thư như đã in vào tâm trí. Thư viết:
“Chàng thi sĩ thương nhớ của lòng em! Khi
chàng xa nơi này, là cớ để em quên chàng để trọn bổn phận người con hiếu thảo
với cha mẹ. Nhưng, sao em không thể xóa nổi hình bóng chàng nơi sâu thẳm trong
trái tim em! Lúc này đây, em chẳng khác nào cái cây đang tươi tốt bỗng héo khô;
dẫu có ai vun xới, bón phân, tưới nước, cây vẫn không thể tươi trở lại được
nữa!... Em lấy làm thất vọng và đau
khổ cho phận mình, em không được tự do lựa chọn người mình yêu. Hẹn chàng kiếp
sau, nếu có! Chàng hãy tin rằng, em vẫn thương và chỉ yêu mình chàng!..”
Thư đề ngày …tháng... 1942.
Em Chẩn – ký
tên
Khi viết về cô Chẩn, từ Sài Gòn tôi gọi điện
ra Nha Trang phỏng vấn anh Quách Giao, con bác Tấn để kiểm chứng. Anh cười hì
hì vào điện thoại, xác nhận: “Chuyện này có thật đấy em. Hồi đó, ba em đẹp
trai, cô Chẩn dáng người thanh thanh, xinh gái; hai người đi bên nhau rất xứng
đôi, nhưng cha mẹ cô Chẩn chê thi sĩ Xuân Khai nghèo. Hồi ấy thiếu nữ nào đã
gặp ba em cũng chết mê chết mệt chứ không phải chỉ có cô Chẩn hay má em đâu
nhé!”
Nói xong anh lại hì hì và chào tôi trong điện
thoại!
3/Trăng tình lên
ngơ ngác
( về Cô Điệp)
Má tôi
kể: “Một đồng nghiệp của ba tên Nhân, là Hiệu trưởng Trường Tiểu học ở Bồng Sơn
- Tam Quan.. Thầy Nhân đau đầu vì học sinh trường mình cứ lũ lượt rủ nhau bỏ
trường để xuống Quy Nhơn học. Thầy nghĩ nát óc tìm cách giữ chân học sinh. Nhưng vẫn chưa ra! Chợt
hình ảnh anh bạn đồng nghiệp - thi sĩ Xuân Khai đang nổi tiếng trên văn đàn,
lóe lên đầu thầy. Thế là thầy khăn gói vào Bình Định, ngay sau đó. Thầy đến nhà
bạn, trình bày khó khăn và đề nghị giúp. Thầy giải bày tâm can:
-
“Mình nghĩ là cậu có thể nhờ danh tiếng thi sĩ của cậu mà quảng cáo
cho trường, sẽ giữ chân học sinh ở lại, không bỏ trường mà đi nữa!.
Thật không uổng công thầy Nhân. Tiếng đồn thi
sĩ Xuân Khai về dạy trường đã làm thay đổi cán cân đi, ở rõ rệt. Các cô, cậu
học sinh không chỉ rủ nhau ở lại mà còn lôi kéo bạn trường khác về học tại
trường có thi sĩ Xuân Khai để nghe thầy vừa ngâm thơ vừa giảng bài. Cũng phải
thôi! vì đó là thời hoàng kim của “Nhất sĩ nhì nông” cơ mà. Người dân ở đây
sống trong cảnh mây ngàn gió núi nhưng yêu thích thơ vô cùng.
Thời gian trôi đi, kỳ hạn giúp bạn đã đến.
Thầy Xuân Khai chuẩn bị về quê. Nhưng, thầy Nhân đã lỡ “ném lao thì phải theo lao” đến
cùng. Đón người tài về thì dễ, để người đi thì thầy không đành. Vốn quí cái
tài, cái tình của bạn, thầy quyết tìm kế “neo chân ông lại – Mình phải “cột
chân hắn bằng một mối tình may ra mới giữ được hắn ở lại. Và thầy Nhân đã cột
được chân thi sĩ Xuân Khai bằng mối tình với cô gái đẹp ở xứ dừa Tam Quan .
Đây là mối tình giàu tính nhân văn, lãng mạn
song cũng rất bi ai. Cô gái mà thầy Nhân giới thiệu tên là Điệp. Ban đầu, thầy
Nhân vờ vô tình rủ bạn cùng đến thăm nhà cô người quen. Không ngờ, vừa gặp cô
thì chàng bị tiếng sét ái tình vì nét đẹp kỳ diệu của cô thiếu nữ. Chàng bị cô
hớp mất hồn bởi khuôn mặt hình trái xoan đầy đặn, hai má hây hây đỏ như quả
táo, miệng chúm chím cười hé lộ một nửa hàm răng trắng, đều như hạt lựu, hai má
lún đồng tiền ưa nhìn; da thì vừa trắng lại vừa mịn như trẻ con. Còn đôi môi
thì mọng nước thật gợi cảm; đôi mày cong vút như râu ngài, mắt ướt, đen láy
khiến thầy quên mất ngày về!
Nhìn thấy bạn có vẻ ngẫn ngơ trước sắc đẹp của
Điệp, thầy Nhân tin chắc cơ hội giữ chân bạn đạt đến 95% là cái chắc, nên đã
thẳng thắn đề nghị:
- “Cậu ở lại giúp trường mình nhé, cậu mà đi
khỏi thì trường mình lại như trước thôi!”
Thông
cảm với nỗi lo xa của bạn, và bị nàng Điệp kéo chân nên ba tôi nhận lời ở lại.
Nhắc tới cô Điệp, ba tôi xác nhận: “Một cô gái có khuôn mặt trong sáng, thánh
thiện, một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, nét đẹp lạ lùng hiếm thấy!” Thế
nhưng, trời cho cô nhiều đến thế thì cũng lấy đi ở cô không ít! Cô không nghe
được, không nói được! Cô bị câm, điếc! Giao lưu với cô phải dùng giấy, bút.
Những dòng tâm sự với chàng thi sĩ về cuộc đời mình lần lượt hiện lên trang
giấy. Qua chuyện đời cô chàng thi sĩ động lòng, cảm thương và đón nhận: - Vì
nét đẹp mê hồn quyến rủ đó nên cô được một người đàn ông Pháp thuê giúp việc
nhà. Trước sắc đẹp của cô, ông chủ không cầm lòng được, đã cướp đi cái quí giá
nhất đời người con gái cô. Cô có bầu, sinh ra bé gái kháu khỉnh. Nó thừa hưởng
ở cha mẹ những nét trội, ông chủ rất yêu con. Khi bé lên hai, sợ nó bị câm,
điếc như mẹ nên ông đưa về Pháp. Ông để lại ngôi nhà và sắm cho cô gánh hàng
xén giúp cô tự nuôi thân.
Mỗi lần nhìn trẻ con chơi đùa trước ngõ, cô
chạnh lòng nhớ con đến ngẩn ngơ; có lúc như người mất hồn, đầu óc trống rỗng.
Vì thế, hôm thầy Nhân đưa thầy Xuân Khai đến nhà chơi, cô vui lắm, cô cho rằng,
trời xui khiến cho cô gặp chàng để bù đắp nỗi cô đơn mà cô đã trải qua. Nỗi nhớ
con, trở thành tình yêu trọn vẹn dồn tất cho thầy giáo trẻ. Hai trái tim, mỗi
người một cảnh, gặp nhau đã hòa cùng nhịp. Những đêm trăng sáng, họ rủ nhau ra
sông tắm, cùng ngắm trăng treo đầu ngõ, nói với nhau bằng ánh mắt và những nụ
hôn ..
Nhưng rồi, không hiểu vì sao, trong đầu thầy
như có tiếng gọi từ quê giục thầy trở về. Thầy phân vân giữa đi và ở trong tâm
can. Song tiếng gọi của quê hương mạnh hơn, thuyết phục hơn đã lôi được chàng
tỉnh cơn mê để quay về. Điều này khiến chàng không thể nói lời từ biệt với Điệp
nên đã lặng lẽ mua vé tàu vào chuyến 2 giờ khuya để ra đi .
Ở sân ga lẻ, đêm lạnh, vắng ngắt, chỉ có hai
ba người chờ. Khoảnh khắc chờ tàu đến ngạt thở, sốt ruột, chàng cảm giác có lỗi
với cô Điệp. Vì không còn cách nào hơn - đây là cách giải quyết tốt nhất cho
hai người - mối tình đầy nghịch cảnh, không lời hẹn ước..!”
Đang chạnh lòng, bỗng chàng nhìn thấy bóng một
cô gái mặc chiếc áo dài Lê Phổ (nhà thời trang thập niên 1930-1940) ngoài cổng
ga như đang tìm ai. Chàng nhận ra Điệp. Cô gái xăm xăm tiến về phía chàng, vừa
đi vừa đưa đôi tay lên ôm mặt. Chàng bật đứng dậy khỏi chỗ ngồi, tiến lại gần
cô. Cô òa lên khóc nức nở, rồi quay lưng bỏ chạy. Lòng thầy trào lên cảm giác
khó tả! Nhìn đồng hồ ga, thấy còn thời gian, chàng bèn quay lại nhà Điệp để xin
lỗi. Vừa thấy bóng chàng, cô lao ra, ôm
ghì lấy người chàng, hôn lấy hôn để trên khuôn mặt, trên khắp người chàng… và
chàng đã thiếp đi trong vòng tay em ái của Điệp... Đến 1 giờ, cô lay chàng dậy.
Chàng thấy Điệp tỉnh táo và vui vẻ hẳn, lại sốt sắn tiễn chàng ra ga. Cô tuy
câm điếc nhưng cái tâm của cô thật trong sáng, cô đối nhân xử thế rất phải đạo:
“Em không có quyền giữ một người như
chàng cho riêng mình, chàng phải được hạnh phúc...!” Và họ biệt tăm nhau từ
đó, không lời hẹn ước!
Mối tình với cô gái câm là nỗi day dứt trong
lòng ba tôi. Có lẽ bài thơ “Ga xép” phản ảnh sự dằn vặt của ông suốt bao năm vì
người đàn bà bất hạnh ấy..
Con
tàu suốt của những chiều dĩ vãng
Giữa
phút nhớ em - chạy giữa lòng tôi
Động
thức hồn xanh từng cụm cây đồi
Chầm
chậm ngang qua ga xép
Khói
vướng đường cong giây thép
Cuộc
đời nặng trong đoàn toa xao xuyến
Trôi
dài qua mấy thước sân vuông
Một
môi cười hay một vệt trán buồn
Không
rớt lại trong chiều ga xép
Em
đừng trách lòng anh xưa chật hẹp
Khi
đời anh
con tàu cũ đang trôi
Và
tình em cô quạnh giữa đời
Như
một nhà ga
không người lên xuống.
Về
chuyện này ba tôi có lần nói “Ba có một
truyện ngắn, tên “Trăng tình lên ngơ
ngác” kể lại mối tình giữa một
chàng thi sĩ làm thầy giáo và cô gái câm. Tuy nhiên, tôi chỉ nghe ông nói chứ
chưa thấy. Có lẽ nó bị đốt khi ba gửi cho cậu Thành giữ để đi tập kết, hay ai
mượn xem rồi giữ luôn!
Mối tình này nhiều lần má tôi day dứt và băn
khoăn, nói: “Có thể ba và cô Điệp đã có
gì đó với nhau. Ba rất muốn biết nhiều điều về cô ấy” Bài thơ “Uống rượu với bạn đồng hương” viết tại
Hà Nội, khi ba 55 tuổi, vẫn thấp thóang bóng dáng người đàn bà đẹp mà câm ở xứ
dừa Tam Quang :
Những vần thơ ban đầu
Từ
bóng cô hàng xén
Đến
tiếng vọng còi tàu
Không
một lời hứa hẹn...
Ít
lâu, sau ngày giải phóng, ba tôi trở về quê. Đôi lúc chân ông như bị sợi giây
vô hình lôi trở lại xứ dừa Tam Quang. Tiếc thay, khi hỏi thăm những người già,
không một ai biết chuyện tình giữa chàng thi sĩ và cô gái câm thuở ấy nữa!..
4/ Mùa xuân này lạnh lắm em ơi
(chuyện về cô Thỏ và cô Thẻ)
Tôi quên hỏi chuyện ba kể sau đây xảy ra năm nào? Ông đã đi xa! Nhưng,
thiên diễm tình giữa chàng thi sĩ và thiếu nữ lai Pháp vẫn lãng vảng trong đầu
tôi. Theo lời ba kể:
Ông
có hai năm dạy học ở Trường Tư Thục của Nhà Chung Thanh Hóa–Trường Alexandre de
Rhodes. Thời ấy, người ta quen gọi Trường Mission. Cạnh trường là ngôi biệt thự
của một gia đình quyền quí, mẹ là người Việt, cha người Pháp, sinh một lần được
hai cô con gái, giống nhau như hai giọt nước. Tên cô chị là Thỏ, em là Thẻ. Cặp
trẻ lai được Trời ban cho khuôn mặt Tây lai ta: đầy đặn nét ngài, sóng mủi cao,
mắt nâu, da trắng hồng, và Việt lai Tây, tóc đen nhánh, dày xỏa tràn bờ vai.
Tuy nói giống nhau như hai giọt nước, song
nhìn kỹ thì cô Thỏ mặn mà, sắc sảo, nét nào ra nét đó. Các chàng trai từ Nam ra
Bắc đều nghe đồn về sắc đẹp của hai cô, nhất là cô Thỏ, ai cũng muốn tận mắt
chiêm ngưỡng tinh hoa của trời có đúng như lời đồn đại không?
Hai chị em được cha để lại Cửa Hàng bán Mỹ
phẩm, hiện nay là đường Lê Hoàng. Mẹ mất, cha sống bên Pháp, hai cô ở với người
cậu.
Cô Thỏ biết thế mạnh sắc đẹp của mình, nên
rất kiêu kỳ. Sự kiêu kỳ khiến chẳng một ai lọt được vào mắt xanh của nàng. Các
đồng nghiệp của Xuân Khai, nhiều lần bị nàng cự tuyệt, ức lắm, họ tìm cách trả
thù. Và họ phát hiện ra người có thể thay họ để trả thù cô ta là nhờ cái vẻ thư
sinh của chàng nhà giáo làm thơ tên Xuân Khai: “Hắn ta có thể đánh bại được “kẻ thù” của chúng ta”, Và họ liền giả bộ thách chàng: “Cậu mà cưa đổ được cô nàng, thì tụi mình
trả cho cậu tháng lương”. Một tháng lương của ba hồi đó là 120đ Đông Dương,
lớn lắm chứ chơi đâu! Song, chẳng vì tháng lương của đồng nghiệp mà chính chàng
cũng đã nghe danh, tánh cô nàng kiêu ngạo đó; chàng cũng
muốn “Xem mèo nào cắn mĩu nào”
Thiết nghĩ, chúng ta cũng nên biết về mái
trường mà ba tôi dạy một chút. Dẫu sao, chính nó cũng góp phần vào việc gây
phiền toái không ít cho đời ba trong kháng chiến và cả sau này. Đây là Trường Tư Thục của người Cơ-Đốc-Giáo.
Niên khóa năm 1941-1942 nhà thơ Chế Lan Viên dạy Việt văn từ lớp đệ nhất niên
đến đệ tứ niên và dạy Pháp văn lớp đệ nhất niên ở đây. Mỗi tuần, dạy bốn giờ,
lương 80đ / tháng. Niên khóa 1942-1943 trường Chấn Thanh ở Đà Nẵng mời chú Chế
về dạy. Giờ dạy ít hơn nhưng bằng lương, nên chú nhận lời. Để trọn tình với ông
bạn thủơ hàn vi, chú giới thiệu ba tôi với trường thay chú. Trường đã nghe danh
về thi sĩ Xuân Khai nên bằng lòng để chú Chế đi và đón ba tôi về.
Ba
tôi khoe: “Ba dạy được một thời gian ngắn, được Trường tín nhiệm, tăng lương
lên 120đ. Ba tôi nói, mức lương như thế rất cao so với đồng nghiệp cùng
thời.
Giờ quay lại chuyện
cô Thỏ nhé:
Mãi vẫn chưa có
cơ hội tiếp cận đối tượng để trừng phạt tính kiêu ngạo của cô nàng. Rồi, một
hôm, trên đường về nhà, dịp may hiếm có. Cùng trên một con đường, cô Thỏ đạp xe
hướng ngược lại. Bỗng đâu, một luồng gió mạnh thổi, quấn tà áo dài cô vào xích
xe đạp. Loay hoay mãi vẫn không lấy được vạt áo ra. Đúng lúc, Xuân Khai bước
đến, nhẹ nâng bánh xe sau lên, quay ngược rồi cẩn thận gỡ tà áo ra. Xong, chẳng
nói chẳng rằng, tỉnh bơ đi thẳng, không kịp để người đẹp nói lời cảm ơn. Chính cái
phớt tỉnh Ăng-lê đó khiến người đẹp ấm ức, cục tự ái dâng lên tận cổ, cô quyết
tâm tìm bằng được con người khinh bạc kia là ai? Từ đâu đến? Sao hách thế?
Liền sau, cô nhờ người dò la tin tức, địa chỉ
của chàng để biết người ấy như thế nào mà dám phớt tỉnh cả với cô?
Còn
chàng trai, hôm đó, đến giờ tan lớp, lững thửng bước ra cổng trường, vô cùng
kinh ngạc khi thấy cô Thỏ đứng ngay bên trái cổng, mắt xuyên không gian, hướng
thẳng về phía chàng, nụ cười mỉm chi đã sẵn trên làn môi thắm. Dưới bóng mát
của hàng cây phi lao, trong chiếc áo dài màu hoàng yến, cô thật lộng lẫy và đẹp
mê hồn! Lạ thay! Chàng thấy cô vẫy tay ra hiệu cho chính chàng đến chỗ cô…
Bắt đầu từ đó, cứ sau giờ tan trường, cô Thỏ
đến đứng dưới bóng mát hàng cây phi lao, đón chàng bằng chiếc xe đạp nọ… Cuối
cùng, bạn đồng nghiệp phải chịu thua thầy Lang và xác nhận “Trái tim cô gái kiêu kỳ kia đã bị Xuân Khai
chinh phục được rồi!” Ngày nghỉ, người ta thường thấy thầy và cô nàng kiêu
kỳ sánh đôi trên bãi biển Sầm Sơn, hay ở công viên trước những cặp mắt ghen tỵ
của các chàng trai đồng nghiệp…
Mùa đông năm ấy cô Thỏ đan tặng ba tôi chiếc
fuolard quàng cổ màu xanh cổ vịt. Lại nữa, cô đem xấp vải Tropican trắng, cha
gửi từ Pháp sang, may cho ông bộ complet.
Bộ complet này, ba tôi đã mặc trên chuyến tàu về lại quê. Ông cho rằng
chính vẻ sang trọng của nó đã làm cho các sĩ quan Pháp ngồi cùng toa với ông
kính nể.
(xem bài “Trên chuyến tàu về lại quê năm
ấy”)
Ba tôi và cô Thỏ không đến được với nhau là
do chiến tranh loạn lạc. Nhật đảo chính, Pháp rút lui khỏi xứ Thanh. Trước tình
hình đó, chị em cô được cha đưa về Pháp. Còn ba tôi về quê tham gia kháng chiến
kiến quốc.
Bộ complet và chiếc foulard quàng cổ, cô Thỏ
tặng đã thành kỷ vật theo ba nhiều năm tháng. Lần họp toàn thể anh em làm công
tác Văn Hóa của Liên Khu Năm, ở Thiết Đình Bồng Sơn, ông bị mảnh bom cứa rách
ống quần, bị thương ở gót chân trái và được mẹ ông Hoàng Phê (sau này lấy cô
Châu Thị Hạnh) chăm s óc
Tiếc kỷ vật, ba tôi giữ lại, đến khi hai chị
em tôi lớn, ông đem thợ may làm hai chiếc mũ vành rộng. Hai chiếc mũ này được
chúng tôi đội ra tới Miền Bắc. Khi Bác tập trung con em cán bộ tập kết vào học
tại các Trường Học sinh Miền Nam, được phát đồng phục áo quần, dép cao su, mũ
lá cọ, chúng tôi buộc phải vứt bỏ những chiếc mũ ấy đi. Sau này, nghe ba kể lai
lịch hai chiếc mũ thì đã muộn! Tiếc quá! Nếu biết sớm, tôi đã giữ lại để giờ
đây “Phòng
lưu niệm Yến Lan” có bằng chứng về mối tình lãng mạn, dễ thương của
chàng thi sĩ Xứ Nẫu với cô gái lai Pháp ở Thanh Hóa.
Còn chiếc áo, ba tôi đem ra Bắc. Ngày đông
lạnh giá ở Hà Nội, chiếc áo đó đã sưởi ấm ông suốt bao năm đất nước chia đôi.
Một lần, vào “Cửa Hàng Đồ cũ” đường Hồng Bàng - Hải Phòng, thấy có chiếc quần
trắng, hao hao giống vải của chiếc quần cũ, ông đã mua cho đủ bộ. Không biết có
phải bộ ông mặc ở bức ảnh chụp chung với nhà văn Nguyễn Khải và nhà thơ Hoàng
Minh Châu không?!
Từ trái qua:
Nhà thơ
Hoàng Minh Châu, Yến Lan và nhà văn Nguyễn Khải
(ảnh chụp thời gian đi thực tế)
Có một ít đáng lưu ý.
Vào ngày giỗ ln 12 của ba tôi (trung thu
2010) tại quê An Nhơn-Bình Định. Nhà văn Mai Ngọc Thanh - người trước kia - một
trong những bạn vong niên rất trân trọng ba tôi, đã gửi tặng tôi sách của chú
vừa xuất bản. Hồi đó, thỉnh thoảng về phép, tôi gặp chú ở 37 Hàng Quạt. Tôi
thấy hai người thân thiết với nhau nên khi biên tập Hồi ký “Yến Lan nhớ mãi về anh”, tôi cũng muốn
có chương dành kể về chú, nhưng liên hệ với chú không được!
Tình của chú đối với gia đình tôi, qua mấy
dòng tâm sự mà chú gởi cho t ôi:
“Với anh Yến Lan, tôi có nhiều kỷ niệm lắm.
Với chị Yến Lan và các con của anh chị, vợ chồng tôi có nhiều gắn bó lắm, khó
mà kể ra cho hết. Tình cảm ấy trở thành tài sản trong cuộc sống của vợ chồng
tôi, thứ tài sản bền vững nhất...”
Chú
kể về mối tình ba tôi với cô Thỏ.
“Thời gian ba tôi dạy ở trường Mission,
là lúc chú đang ở với bà ngoại để học Tiểu học (Moyen 1 và Moyen 2) tại trường
hai năm; học với thầy Nguyễn Đình Tiên (là nhà văn quân đội, tác giả bộ sách
“Chân dung tướng ngụy Sài Gòn” là bạn học với Nguyễn Tường Vân, con trai ông
Nguyễn Tường Long, anh ruột của hai chị em cô Thỏ-Thẻ. Hai chị em đều là hoa
khôi của tỉnh Thanh Hóa thời ấy, khiến không ít chàng trai mê đắm. Nguyễn thị
Thẻ yêu Phạm Huy Thông với “Tiếng địch sông Ô”, ở phố Hàng Bạc Hà Nội, còn cô
Thỏ yêu Xuân Khai với “Bến My Lăng”. Như vậy, hai chị em ruột yêu hai thi sĩ
rất nổi tiếng thời bấy giờ. Khi trường Mission đóng cửa, Yến Lan quay về quê,
còn Phạm Huy Thông phải đi du học bên Pháp.
Thế có nghĩa, theo chú Ngọc Thanh thì hai cô
Thỏ-Thẻ là người Việt thuần chủng, có anh ruột là Nguyễn Tường Vân, con của ông
Nguyễn Tường Long. Còn theo chuyện tôi nghe được từ ba tôi thì cô Thỏ và Thẻ là
con sinh đôi, lai Pháp.
Nhưng,
chú Mai Thanh không đảm bảo chú đúng, tôi sai; chú hơi bâng khuâng về vấn đề
này như thế?
- Nếu lấy nội dung bài thơ “Mùa xuân này lạnh lắm em ơi” của ba tôi,
có những câu
Ta đang dệt mộng với tơ vần
Rối rắm tâm tư
cố gỡ lần
Mơ ước vừa vun
đầu ngọn bút
Biết đâu em sắp
sẵn hành trang
Em đi, ngày
tháng biệt mùi tăm
Kén đã luân sinh
mấy kiếp tằm.
Một mảnh hồn ta
còn đọng mãi
Trên vành nong úa
sắc thời gian.
Mảnh áo tơ vân
lỗi hẹn rồi
Mùa xuân này
lạnh lắm em ơi
Bài thơ ấy đắp
sao cho kín
Mảng tuyết cô
liêu phủ suốt đời....
Bài thơ viết khi hai chị em cô Thỏ-Thẻ chuẩn
bị về Pháp. Ba tôi nói, lúc đó, hai cô sống với người cậu. Nên có thể:
- Ông
Nguyễn Tường Long là cậu của họ chứ không phải cha, còn Nguyễn Tường Vân có thể
là anh em con cậu mà thôi. Nếu ai biết rõ mách dùm.
5/ Nàng thơ tuyệt vời
Tôi lấy tựa đề của một
bài báo để làm tựa cho nàng thơ cuối cùng của ba. Mà không biết đã là cuối cùng
chưa? Mấy chị em tôi thường hay bắt noọng, hỏi má “Ai là người biểu hiện tình
cảm trước, má hay ba?” Không chịu nổi sự “dồn nén của lũ con quái ác” má tôi đã
dũng cảm thú nhận là bà để ý đến thi sĩ Xuân Khai trước. Bà kể:
“Hồi đó, ba các con rất nổi tiếng về tài thơ,
tài kể chuyện và là người có cốt cách thanh nhã, phong thái đỉnh đạt nên được nhiều thiếu nữ mê. Má để mắt tới ba nhiều
nhất, kế là chú Chế Lan Viên. Mấy cô bạn của má có cô Trinh Nữ, cô Yến, cô Chẩn
ở Nha trang cũng rất thích ba. Ba đứng ở đâu, các cô gái đều hướng mắt về phía
ấy như nam châm hút mạc sắt vậy. Khi trở nên thân thiết, ba thường đưa má đi ra
Đập Đá, Bồng Sơn, xuống Qui Nhơn bằng
xe ngựa rất lãng mạn. Má tôi còn khen
ba biết ăn mặc hợp thời trang thời
đó; như thường mặc quần màu be sáng hoặc ghi đậm, áo trắng hay áo màu bordaux
(mận chín). Với tong màu như vậy trông ba thanh lịch và bảnh trai lắm! Đi cùng
ba trên chiếc xe ngựa, má hãnh diện với bạn bè, họ nhìn theo vẻ ghen tỵ
Trong “Yến Lan nhớ mãi về anh” (Tr 40) má tôi
kể
Anh
Lan học cùng lớp với anh Thành tôi. Hai người thân nhau; cứ ba bốn tối, anh
xuống nhà rủ anh tôi đi bắt chim sẻ ngủ ở rìa các nhà ngói. Có đêm, các anh bắt
được hai ba chục con. Sau đó, về nhà vặt lông, thui, xẻ bụng rồi nhét đậu
phọng, ớt, mỡ hành nướng lên thơm nức mũi đã lôi tôi ra khỏi giường để cùng
tham gia. Hôm nào nhiều quá, các anh băm nhỏ nấu cháo. Cháo chim sẻ ăn ngon,
ngọt lắm! Hồi ấy không có tủ lạnh, hôm nào bắt được nhiều, các anh chia nhau
mang cho bạn nghèo cùng lớp...
Tuy xuất thân gia đình nghèo, khó, nhưng lòng
tự trọng của anh Lan cao lắm. Lúc nào không lên lớp anh ở nhà làm thơ, viết
truyện ngắn đăng trên tạp chí Tiểu thuyết Thứ Năm chứ không đàn đúm, lêu lổng
như một số thanh niên con nhà giàu. Lâu
lâu, anh rủ anh Ba tôi lấy ná cao su đi bắn chim cu, gà gô ở các bụi dúi, bụi
sim trên đồi gần các Tháp Chàm Tài bắn
chim của anh, các bạn lớp phục sát đất. Chỉ với cái ná cao su và cục đá, anh
nhắm con nào, con ấy rụng xuống chứ không có cơ hội bay tiếp! Cứ mỗi lần hai
anh ra đi, lúc về hai tay xách nặng chim!
Cha tôi tinh lắm, để ý thấy mấy lần đến nhà
anh không dám nói để thăm tôi mà nói là tìm anh Ba. Nhưng cử chỉ anh khiến cha
tôi biết tổng. Cha không muốn tôi kết thân với anh nên trả lời: “Con Lan đi vắng, nó không có nhà đâu mà hỏi”. Anh hiểu ý ông già, chơi tí rồi ra về.
Làm
được bài thơ mới nào, anh nhờ anh Ba chuyển cho tôi. Thư anh xem xong tôi giấu
trong ruột tượng ông Phước; thằng em tôi-Sáu Can là tay sai đắc lực của cha. Ông
treo thưởng tiền để theo dõi tôi. Nghe nói đến tiền là nó liền rình lấy để nộp
cha nhận thưởng.
Tối đó, tôi thấy ông đọc thư, lông mày nhíu
lại, không nói năng câu nào, tôi yên trí đi nằm. Nào ngờ, khi cả nhà chìm sâu
vào giấc ngủ, ông lay tôi dậy:
- “Lan
ơi! Dậy nghe cha nói cái này. Nhà ta chỉ mình con là gái, thương lắm cha mới
dạy. Con mà lấy thằng Lang, nhà cửa không có, suốt ngày chỉ thơ với thẩn, lấy
nó là lấy thơ chứ có phải lấy người đâu. Mà thơ thì làm gì ra tiền, Người ta
nói “có nước đồng, nước sông mới nhẩy”
lấy nó có con, lấy chữ nuôi chúng à!, Con không nghe lời cha, khác nào cá không
ăn muối. Muốn sướng cái thân thì đừng lấy nó nghe con!..”
Không lấy được chàng thi sĩ, cô Lan quyết đi
tu. Cô vào tu tại chùa Sư Nữ ở Phan Thiết. Cô như biến khỏi mặt đất, gia đình
không tìm ra; may sao, bà chị, con ông bác, đi lễ Phật gặp, mật báo cho gia
đình. Thầy Lang nghe được, khăn gói theo anh Ba Thành vào tận chùa đón về.
Và
bài thơ “Phan Thiết” ra đời:
Ôi Phan Thiết,
sông Cầu, Lăng Cô, Đà Nẵng
Đến một lần chỉ
để nhớ mãi không khuây
Đêm lạnh, tóc
mai dầm hướng gió
Nặng tình xanh
trăn trở giữa chăn đơn
Tôi thức uống
bầu sao từng hớp nhỏ
Gạn vô lòng chất
biếc mỗi tình thương ….
Hàng
ngày, tôi đi chợ bán hàng, ngang qua chùa Ông - nơi anh Lan tá túc. Anh thường
đứng trước cổng, dường như cố ý đợi tôi. Anh mỉm cười nhìn tôi gánh hàng đi
qua. Biết tôi thích thơ nên anh hay đưa tôi đọc trước những bài mới làm. Một
hôm, anh khe khẽ gọi “Lan ơi! tặng em bài thơ anh mới làm tối qua nè”. Bài thơ
có tên “Hoa tặng”. Xem thơ tôi cảm động và thương anh nhiều hơn:
Tuổi trẻ băng
đồng đi hái hoa
Tặng em ngấp nghé chực quanh nhà
Người không ra đón hoa dần héo
Héo cả làn mây
đỉnh núi xa.
Không trách ai
đâu chỉ trách mình
Dáng nghèo, lam
lũ áo thư sinh
Bó hoa đơn giản hương đồng nội
Lầu gác, ai đâu
dễ động tình
Trở lại cành
trơ, tự hổ ngươi
Giá hoa còn đấy,
hẳn đang tươi
Vụng về đến phải
vô duyên vậy
Bởi hiểu hoa
thôi, chẳng hiểu người..
(Hoa tặng 1938)
Ở lớp
thầy Lang, tôi học được nhiều điều: cách sống, ý nghĩa cuộc sống, anh nói: -
“Trên đời mọi người đều có chỗ, bên cạnh
cái thiện là cái ác đi kèm.” Vì vậy, khi cha tôi không cho lấy anh tôi đã lý
sự:
- Người như anh Lang, nhất định sẽ có
tương lai. Anh Lang, mẹ mất sớm, tuy nghèo, nhưng anh đã biết tự kiếm sống bằng
chính cái chữ là dạy học để kiếm tiền. Cha hãy xem, mấy ông con nhà giàu chỉ
biết lấy tiền cha mẹ để tiêu khiển, cờ bạc, gái gủng, ngữ ấy
sớm muộn gì đời cũng tàn. Vậy là anh Lan ưu điểm hơn họ, cha còn mong gì hơn
thế hở cha?
Bất luận thế nào, cha cô cũng không đồng ý
cái lý sự quái gở của con gái chỉ vì muốn lấy được cái thằng “thi khỉ” nghèo
xác xơ kia.
Nhưng trong lòng tôi chỉ có hình bóng của anh
Lan. Anh đã lay động được trái tim tôi khiến tôi coi nhẹ mọi thứ ràng buộc để đến với anh. Cuối cùng, người cha đại phong kiến của tôi
phải chấp nhận để chúng tôi đến với nhau. Lúc đi xa, nhớ tôi anh có bài thơ: “Nhớ làng”.
Bài
thơ nhớ làng, tình cảm ở đây không
chỉ dành riêng cho má tôi; nó đã lan tỏa rất xa, và lắng lại trong lòng độc giả
yêu thơ nhiều thế hệ qua. Mỗi người một cảm nhận riêng. Với tôi, mỗi khi nhìn
những sợi mưa trong vắt, rơi trước sân nhà, tại bán đảo Thanh Đa, lòng tôi khắc
khoải nhớ quê da diết: - Mưa đưa thương nhớ về làng / Mưa làm xa những dặm đàng bến sông
- Nhà
thơ Hoài Anh: “Đọc thơ Yến Lan tôi rất thích 2 câu:
Chiều nay mở cửa
ra trông / Thấy làng đâu, chỉ thấy lòng mà thôi!
Thơ Yến Lan là vậy, cảnh chí đơn sơ nhưng lòng
thì trải rộng, tràn ngập cả không gian, trải dài dằng dặc trong thời gian.
- Nhà
thơ Võ Phiến, Hiện đang sống ở Mỹ nhớ về Yến Lan:
“Trước
kia, thi sĩ Yến Lan ở gần cửa Đông thành Bình Định cũ. Ông có nhiều bài thơ nói
về chỗ quê hương mà ông thiết tha. Bình Định trong thơ Yến Lan không là đất anh
hùng của Quang Trung, đất huyền bí của Chiêm Thành v.v..không có gì lớn lao hãi
hùng như thế trong thơ Yến Lan. Tuy nhiên người cùng quê đọc thơ ông thường nhớ
quê thắm thiết nhất. Một hôm nhớ làng Yến Lan đã vẽ cảnh làng:
Ở đây nắng mới
võ vàng
Dừa cao lểnh
khểnh,
cành xoan ngoằn
ngoèo
Con đàng thì
ngút cheo leo
Mình đi chỉ bóng
cùng theo với mình
Làng
của thi sĩ ở giữa một vùng thành quách, xưa kia hẳn là huy hoàng, dinh thự,
chen chúc phố xá. Nhưng thành quách đã bị phá hủy, sinh hoạt đã tàn tạ, cho nên
rốt cuộc hình ảnh do thi sĩ đưa ra sao mà giống cảnh làng tôi ở một vùng sơn
cước hẻo lánh, sao mà vắng vẻ, tịch liêu, sao mà quạnh hiu ngui ngút…và đó cũng
là hình ảnh nổi bật nhất về Bình Định
quê nhà trong trí tôi, mỗi khi hồi tưởng lại những ngày bé dại.
Nhưng
lúc này, vào thượng tuần tháng sáu, hai câu thơ sau đây của Yến Lan mới thật
xúc động “Chiều nay mở cửa ra trông/ Thấy
làng đâu chỉ thấy lòng mà thôi!
(Trích thư gửi Yến Lan, không ngày tháng)
Lâm Bích Thủy
No comments:
Post a Comment