Tác giả Thủy Điền
PHẢI DÈ...
Lan ngồi kề bên chiếc xe bán nước đá đậu, trước cổng
Khám Chí Hòa. Nàng vừa đọc sách, vừa cầm cây que râu quơ quơ mấy con Ruồi đang
thèm ngọt. Mắt nhìn vào quyển sách, miệng cứ thì thầm “ Phải dè “…. hồi đó lấy
đại Sơn cho rồi, rồi dẫn anh ta về quê, xin ba mẹ cho vài công đất, hai đứa cất
cái chồi, trồng Bí, trồng Rau để sống. Có phải sướng hơn khi phải ngồi trước
cổng Khám Chí Hòa nhìn toàn những cảnh đời tội lỗi. Ngày ấy sao quá ngu si, khờ
dại. Cứ chọn lựa, phân vân, giàu- nghèo, xấu- đẹp, danh vọng. Để bây giờ ra
nông nỗi.
Năm học lớp 11 Trường trung học
Nông Lâm súc Định tường, tình cờ Lan quen Sơn qua một người bạn cùng lớp. Sơn
cũng học Nông Lâm Súc, nhưng thuộc Trường khác. Hai người làm quen, rồi yêu
nhau. Sự qua lại giữa hai gia đình, Lan yêu Sơn vì chàng đẹp trai, nhưng ngặt
nỗi hơi nghèo, không cung ứng, cũng như giải quyết những yêu cầu mà nàng cần
đến và ngược lại. Mọi suy nghĩ bồng bột bước đầu của người con gái mới lớn, vừa
mới biết yêu bỗng tan vỡ và cuộc tình ấy đã chấm dứt sau những tháng dài bên
nhau.
Sơn quá rõ vì sau nàng đã nói lời
chia tay và không đến với mình nữa. Chàng chấp nhận và không hờn trách, chỉ
nuối tiếc mà thôi. Lan cũng thế, dù cuộc chia tay không mấy gì suông sẻ, nhưng
nàng đã quyết và tìm cho mình một hướng đi mới. Hy vọng tương lai sẽ sáng sủa
hơn, hầu thỏa được ước mơ của thời con gái.
Sau
ngày giải phóng, trường Nông Lâm súc giải thể, Lan trở về quê được ít tháng,
rồi thi vào trung trung học Sư phạm Tiền giang. Đậu, và học tại đó ba năm. Khi
ra trường được phân công về xã Quơn Long thuộc huyện Chợ gạo làm cô giáo cấp 1.
Ở đây, nàng nghĩ sẽ là cơ hội để nàng tìm được một mái ấm và tương lai mới. Ai
ngờ ! Trường có bảy lớp học, từ Hiệu trưởng, Nhân viên, Thầy cô giáo. Tất cả
đều là phụ nữ cả. Thời ấy các thanh niên trạc tuổi Lan, nếu lý lịch xấu thì họ
phải đi Thanh niên xung phong, còn ngược lại lý lịch tốt thì phải lên đường thi
hành Nghĩa vụ quân sự. Bởi thế, cả làng đều vắng bóng những chàng trai. Ngày
mới về nhận công tác, nàng vô cùng thất vọng, nhưng không thể nào làm khác hơn
được. Vì một khi đã nhận giấy quyết định của Ty Giáo dục Tỉnh là phải dạy nơi
mình nhận Nhiệm sở tối thiểu là ba năm. Sau đó muốn xin đi đâu thì xin hoặc là
xin nghỉ việc luôn. Lan thì muốn đi dạy, nên phải đành chấp nhận Quơn Long là
điểm dừng chân. Nàng dạy được hai năm và chờ thêm một năm nữa, nàng sẽ làm đơn
xin về trường Huyện hoặc gần nhà, hy vọng nơi ấy sẽ khá hơn nhiều, còn Quơn
Long là một xã nhỏ xa xôi, đèo heo, hút gió. Bỗng “ Đùng “ một cái. Anh trai
nàng làm việc ở Sài gòn về ăn giỗ, có dẫn một ông bạn thân theo cùng. Trong
buổi tiệc vui, uống dăm ba ly, lời qua, tiếng lại. Ông bạn nhã ý thích Lan? Nên
quây sang hỏi? Nhân. Tớ thích em gái cậu đó Nhân. Cô ta có chồng chưa? Nếu
chưa, gã cho tớ đi, tớ đang tìm vợ đấy. Chỉ lời nói vui vẻ qua loa, thế mà Lan
đồng ý ngay, chẳng cần suy nghĩ, do dự. Anh chàng lớn hơn Lan mười tuổi, cả nhà
nói không xứng đôi, vừa lứa. Nàng bảo, từng tuổi hai lăm, hai sáu nầy có người
dạm hỏi, thì ưng khuất cho rồi, chờ đến bao giờ, còn hơn ở Quơn Long chẳng có
ngoe nào. Chần chừ- chần chừ để nơi mơi ế, chẳng lẽ đi làm vợ bé người ta sao.
Cả nhà nghe nàng nói có lý, nên cũng ưng theo.
Khi hai bên đã là kẻ vợ, người chồng. Nàng làm đơn gởi đến trường và xin nghỉ
dạy. Và, kể từ đó, nàng theo chồng về Sài gòn sinh sống, gia đình chàng tương
đối khá giả, cưới được vợ trẻ, hai năm đầu chàng rất chìu chuộng, cuộc sống vô
cùng hạnh phúc, nàng sinh cho chàng được hai cậu con trai kế nhau rất là khá
khỉnh, ngoài ra nàng khỏi phải đi làm chi hết, chỉ ở nhà lo cho các con, còn
chuyện ngoài xã hội riêng một mình chàng lo tất. Mỗi lần về quê thăm nhà hay
đám đình, nàng khoe đủ thứ, cả nhà ai cũng nói. “Con nhỏ Lan nầy thật là có
phước vô cùng” Có chồng già, ông ấy rất cưng. Bước sang năm thứ ba công
việc làm ăn càng ngày càng suy thoái, xã hội càng ngày càng siết chặt, bất ổn,
thua lỗ trăm bề. Chàng buồn, túng quẩn và sanh ra rượu chè bê tha, đi sớm, về
tối, nợ nần chồng chất, chuyện nhà phế mặc, bất cần, chẳng thèm ngó trước, nhìn
sau. Cuối cùng mẹ con nàng phải lâm vào cảnh bần hàn, cơ cực và nghiệt ngã hơn,
chàng bắt đầu ngã bệnh và từ đó không còn làm được việc gì cả, chỉ biết rượu và
mắng nhiếc vợ con một cách vô lý.
Trong cơn hoạn nạn, một mình chạy đôn, chạy đáo lo bảy, lo ba. Nàng phải trở về
quê vay mượn một ít tiền và xin được một chỗ bán nước đá đậu trước khám Chí hòa
để nuôi chồng và hai con thơ.
Nhìn cảnh nhà bần bạc, nhìn xã hội ngày nào cũng có những chiếc xe thùng của
Công an chở những người tội phạm ra vào, nhìn những người thăm nuôi uống ly
nước đá đậu nửa chừng, không ngon miệng. Nàng muốn nổi bưng những sợ tóc gáy
bạc màu ra từng mảnh nhỏ.
Hai năm nuôi chồng trên giường bệnh, ngày ngày từ sáng sớm đến chiều ngồi trước
khám Chí Hoà như anh Công an gác cổng là hai năm nàng đã thấm thía được cuộc
đời cũng như số phận con người. Tất cả là do duyên phận và duyên phận ấy không
ai tự dưng chọn cho mình được cả và chính mình cũng thế.
Sau khi chàng mất, nàng chỉ còn lại hai con thơ và chiếc xe nước đá đậu hàng
ngày trước cổng khám Chí Hòa Thành phố. Và, tự hỏi? Phải dè, hồi ấy... chắc có lẽ số phần sẽ khác hơn không.
Rồi nàng nhẹ tay, từ từ úp quyển sách lại, nhìn ra phía trước và hai giọt nước
mắt cứ theo hai đôi má nhạt nhòa chảy dài không ngừng nghỉ…!
TRỘI "HAI MƯƠI"
Ta trội hơn mi nửa vạn ngày
Làm chồng, làm bố chẳng gì sai
Mi kém hơn ta quãng đời dài
Làm thê, làm mẹ quá tầm tay
Son, lão duyên phần "Đâu số phận"
Ta, Mi nào mãi, cứ phân vân
Sánh bước, chung lòng cùng góp sức
Trăm năm dài, ngắn "Có là chăng"
THỦY ĐIỀN
No comments:
Post a Comment