ĐẤT CHẠY
Những lát Da lột
trầy trụa
Trôi.
Người
thú vật
nhà cửa
xoong chảo
bùi nhùi quần áo
...
những vạt lông ngắn ngụt
nham nhở
xác xơ
Trôi.
Thất thần
thất thảm
Ô chao,
Giàng ơi !
Dốc trôi
xoáy cuồng
từng mảnh xé tung
làm suối
chạy đồng.
Những giọt lệ cứng thành đá
những ngôi mộ mới
khoác áo màu đất nâu
bó nhang cắm vội.
Những cặp sách của con trẻ
chưa kịp cài khuy
Móc bùn lầy lội
dưới sâu
những cỗ quan tài ván tạp
vội vàng ghép tạm
sình lên
ấn xuống.
Qua rồi những kiếp nhân sinh.
Trôi đi
trôi đi
đám mây trời vẩn vơ quỷ quái.
Lê Phước Sinh
TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Chúc Mừng Năm Mới
Monday, September 30, 2024
ĐẤT CHẠY – Thơ Lê Phước Sinh
KHĂN THÊU – Thơ Lê Kim Thượng
Khăn Thêu 1 - 2
1.
Tình yêu ngày ấy tươi xanh
Khăn thêu hoa bướm tặng anh làm quà
Vườn tình muôn sắc ngàn hoa
Bên em say đắm, mặn mà tỏa hương
Nụ tình chớm nở thân thương
Hoa tình khoe sắc đỏ hường lâng lâng
Tàn cây rộn tiếng ve ngân
Nôn nao trong dạ bâng khuâng hương thầm
Ngọt ngào, sâu lắng, thâm trầm
Dịu êm, thơm ngọt mùi trầm, quế bông
Mắt huyền thăm thẳm mùa Đông
Trái tim mùa Hạ, tấm lòng mùa Xuân
Yêu em tình cứ ngập ngừng
Yêu em lòng cứ lừng khừng lo âu
Mình ngồi tựa sánh vai nhau
Nắng chiều rơi nhẹ trên đầu… Thu sang
Đưa em vào chốn Địa Đàng
Đưa em vào chốn hồng hoang phiêu bồng
Bên nhau, lòng hứa với lòng
Sắt son chung thủy, ấm nồng tình si…
2.
Tình yêu đến, tình yêu đi
Trách nhau thì cũng làm gì được đâu?
Tình mình cũng lắm biển dâu
Làm sao biết được mai sau đứt đường
Giờ mình cách trở hai phương
Con tim lỗi nhịp, buồn vương nỗi niềm
Xa em tôi mãi đi tìm
Câu thơ Lục Bát nhói tim tình đầu
Bao nhiêu con nước qua cầu
Cũng không chở hết nỗi sầu bơ vơ
Em về mắc nợ câu thơ
Còn anh mắc nợ vu vơ lời tình
Lạnh lùng trong cõi Vô Minh
Lòng ta trĩu nặng ôm tình ngu ngơ
Em còn mãi giữ bài thơ
Một thời hoa mộng, dại khờ tình suông
Đời em vui ít, nhiều buồn
Bên thềm Quả phụ tóc buông đợi chờ
Bao giờ… Biết đến bao giờ?
Tôi – Em… nối lại giấc mơ tình đầu…
Nha Trang, tháng 9. 2024
Lê Kim Thượng
ƯỚC, GUITAR BUỒN – Thơ Trần Mai Ngân
ƯỚC
Mấy mươi năm về trước
Là câu chuyện đời xưa
Mùa Thu đem gió mưa
Ghi tháng ngày trên lịch
Nếu cho tôi điều ước
Xin xóa ngày mi cay
Những nụ cười năm cũ
Đã rõ ràng phôi phai…
GUITAR BUỒN
Em đi đâu
Bỏ lại ngày hôm qua
Mùi hương trong căn phòng còn đầy
Tiếng guitar chào ngày lạc lõng
Em đi đâu
Chiếc khăn choàng mỏng
Không che hết mùa Thu
Đêm chưa sáng lắm sương mù
Đôi vai gầy chắc lạnh
Em đi đâu
Để bão giông không tạnh
Trong lòng anh
Trong nhung nhớ của anh
Tháng Tám mùa Thu xanh
Anh loanh quanh nỗi buồn
Em đi đâu
Sao không lời giã biệt
Sáng nay tiếng guitar buồn, rất buồn.
Ơi! Em ơi! Em ơi…
Trần Mai Ngân
2-8-2024
NHỚ NHỮNG CHIỀU XƯA – Thơ Le Nguyen Thu
NHỚ NHỮNG CHIỀU XƯA
Tóc em gió lộng chiều xưa
sợi dài sợi vắn... cố đùa môi non
dáng xưa ngực nhỏ vai tròn
dáng xưa bước nhẹ còn nguyên nụ cười
anh xưa như hạt sương mai
lăn tròn trên lá em hoài làm duyên
thương về một thuở để quên
bây giờ cố quận em đành mù xa
thu về lá rụng vàng hoa
hồn anh dạo ấy đang mùa xanh mơ
màu thời gian pha hững hờ
trăm năm bụi đỏ bên bờ cồn lai
chiều chiều ngóng xuống mưa mây
lật trang mộng, vết đầy vơi lạ thường
thương thì tình đã sang duyên
thương người xưa, chắc chẳng còn... ngày xưa
Stanton Sept. 28th, 2024 (5:50 sáng T7)
(h. minh họa, nguồn: Báo Dân Trí thứ 7, 28/09/2024)
Le Nguyen Thu
Saturday, September 28, 2024
TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ (Kỳ 2/5) - Võ Công Diên biên soạn
TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ
Võ Công Diên biên soạn
(Kỳ 2/5)
Cái cẳng = cái chân
Cấy cụi = cái tủ đựng chén bát hay các vật dụng khác
Cái mỏ = cái miệng
Cại say cung = Phản biện không đâu vào đâu cả, lý lẽ không vững vàng nhưng cho là mình đúng
Cải trốôc = gãi đầu
Câm mỏ = ngậm miệng
Cẳng = Chân (Chân tay)
Cào vôồng lôông sắn = lên luống để trồng khoai mì (sắn)
Cấp mỏ = Ngậm miệng
Cắt ló = gặt lúa
Cáu = nỗi giận
Cọc = nóng nảy (cọc cằn) mi làm răng mà cọc rứa
Cấy = Cái (Cấy mui = cái môi, chỉ về đôi môi)
Cấy = Cái
Cảy = Sưng
Cấy = Vợ Cấy dôông tui = vợ chồng tôi)
Cấy bường = cái bình uống nước
Cấy chinh = cái chân
Cấy dần = Dụng cụ lao động nghề nông (Dần, sàng, nẻn, nôống, trẹt...)
Cấy đọi = cái tô
Cấy đôn = Bồ chứa lúa
Cấy đôn = Ghế ngồi của nhà khá giả
Cấy đôn to cợ 3x3x3m vách=khung tre, rơm, đất sét, cứt trâu... cựa được chặn
nhiều tấm ván ngang... đổ ló vô đầy đến mô chặn từng tấm đến đó.
Cấy kẹng = Cái cánh của chim, ngỗng, gà, vịt…
Cấy kéng = Chỉ cánh tay con người.
Cấy ngoài roọng = Cấy ngoài ruộng
Cấy ni bộn tiền đó = Cái này nhiều tiền lắm
Cấy nục kiềng (ông núc) = Chỉ cái kiềng ở quê thường dùng để nồi lên nấu ăn
Cấy rạ = Cái rựa (dùng chặt cây)
Cấy tra = Gác gỗ
Cấy tra = Ở ngay căn giữa phía trên sát trần nhà để đựng lúa chống lụt
Cấy tréec = Cái om đất nhỏ
Ceng = Canh (Nấu ceng = nấu canh)
Chạc = Dây (đứt chạc = đứt dây)
Chạc nịu = Sợ dây thun
Chạc đa cũ trối = Ăn nói không đâu vào đâu
Chàng bếp = Giàn tre làm trên bếp rơm. bếp củi, chứa các vật dụng làm bếp
Chàng hảng = dạng hai chân ra
Chặng mẻn = Một đoạn nữa (- Chợ Diên sanh xa gần đây chị? -Chặng mẻn )
Chạng vạng = Buổi chiều tối
Chàng bếp = Giàn bếp
Chao = Đưa qua đưa lại (Chao cho sạch cát trong thúng)
Chạy dọi = Chạy theo, đuổi theo
Chảu = Đẹp (Con cái nhà ai "chảu" xinh quá)
Chèng rèng = Làm phiền (Đừng chẻnh rẻng nữa)
Cheng veng = Băn khoăn
Chết trôi = Chết nước
Chi rứa = Gì vậy (Làm chi rứa)
Chồ = (Bồ chứa lúa)
Chộ = Thấy (Chộ rồi = thấy rồi)
Chộ đàng = thấy đường
Chó lủm= Chó ăn,
Chỗ nớ nờ = Chỗ này này
Chạc địu = Sợ dây thun
Chọi = Ném (Chọi đất = ném đất)
Chờng = Giường ngủ
Chôổng môông = Chỏng mông...
Chút mẻn = Chút nữa
Chự = Giữ
Chứ chừ khi mô? = Chứ lúc nào?
Chừ mi phải đi = Bây giờ mầy phải đi...
Chựa khôông ngạ = Chữa không nỗi
Chưn = Chân
Cộ = Đồ cũ = Đồ cổ
Cộ = Cỗ (Đồ cộ = đồ cỗ)
Côi = Trên (Côi nớ = Trên kia ). Côi trôôc mọc cục kẻn = Trên đầu mọc nhọt
Cơn = Cây (Cơn nầy cao lắm = Cây nầy cao lắm)
Con cấy = Chỉ cô gái
Con đam = Cua đồng
Con lứa = Chi cô gái mới lớn
Còn lưa = vẫn còn
Còn ròi = Con ruồi
Con troi = Con giòi
Cú = Gõ (Gõ lên đầu)
Củ sắn = Củ khoai mì
Cựa = Cửa (Dà cựa = nhà cửa)
Cục = Viên, Nắm (Cục xôi = nắm xôi, cục đá = viên đá)
Cực hung = Khổ lắm
Cục ken nơi mắt = Mắt có ghèn
Cùn = mòn, chỉ vật sắc hoặc nhọn không còn sắc bén như ban đầu nữa.
Cươi = Sân phía trước nhà
Cúp trốôc - Hớt tóc
Dà = Nhà (Dà cựa = nhà cửa)
Đạ chận = Hả giận được phần nào bực bội
Dác / giác giớn = Làm biếng (Dác mần lắm = làm biếng lắm)
Dắc = Dẫn đi, đẩy đi, bưng bê mà có di chuyển đi.
Dại = Trẻ mới lớn (Nó còn dại lắm chưa gả dôông được mô)
Dắn dủ = Nhắn nhủ
Đặng = Được
Đàng = Đường (Đi một ngày đàng học một sàng khôn)
Đập chắc = Đánh nhau
Đẩu = Ghế
Đau đồng = Đau bụng (muốn ra ngoài đồng vắng giải quyết)
Đấy = Tiểu tiện
Dệ tợn = Để sợ
Dem thèm = Làm cho người khác thèm thuồng nhưng không được đáp ứng
Dem xèm (thèm) = thèm thuồng
Đèng = giữ riêng (Của để dành)
Deo deo bắn bắn = Nhập nhòe, nhìn không rõ
Dị = xấu hổ (Dị òm = Xấu hỗ lắm)
Đi đồng = Đi đại tiện ở vùng đất trống
Đi mô = Đi đâu
Thơ: MỸ CHÁNH QUA KÝ ỨC TUỔI THƠ - Võ Thị Như Mai
Nhà thơ Võ Thị Như Mai |
MỸ CHÁNH QUA KÝ ỨC TUỔI THƠ
I.
Đó là trận lụt của năm tám mươi ba
Anh cõng bà nội lên tra
O ngồi co ro trên nóc tủ
Người ta đồn
thuyền chở ba mẹ nhấn chìm trong lũ
May mà sau giông
cả hai lạnh, môi thâm, ào ạt vào nhà
Ba ngày đêm bão vần vũ kéo qua
Anh lật thùng phuy nấu một nồi cơm nhão
Chờ khi trời ráo
đâu thân chuối làm ghe
qua dì dượng xem chừng
Đài phát thanh thị xã rè rẹt không ngừng
Bao kẻ trôi sông, mấy người mất tích
Mỗi năm đến mùa bão cứ dòm lên lịch
Vái ông trời, cho Mỹ Chánh lặng yên
II.
Đó là những ngày thần tiên
Lội sình qua kênh thăm cô giáo ốm
Con Mai ròm
nẹo mình bên hông
tay cầm miếng cốm
sợ rơi tõm xuống bùn
Hình như nó vẫn ròm
Thằng Chiến tổ trường
Năm nào cũng nhận phần thưởng
Giờ lang thang ca khản cổ khắp làng
Thằng Tân ngày xưa nhút nhát chẳng ai màng
Đang làm giáo sư bên Pháp
Sau những ngày bão táp
Cùng thằng Bửu nhặt me
Ăn có bao nhiêu, ném cả sau hè
Rồi cười như nắc nẻ
III.
Đó là những cô gái đang thời tươi trẻ
Tóc mượt, mắt long lanh, đáo để duyên ngầm
Các chàng trai hàng xóm ngờ nghệch yêu thầm
Không hay mỗi đêm
Dăm người già ra xua tay đuổi chó
“Mấy thằng khỉ gió
Chúng nó lại đi gò”
Đợi hoài thành âu lo
Các cô xuống đò
Ngậm ngùi về làm dâu làng khác
IV.
Đó là một chiều gió bạt
Cậu mượn thuyền chở bé đi chơi
Mê mải vớt lục bình, mưa rơi
Chèo hoài, chưa thấy đâu là bến
V.
Đó là tô canh hến
Là bún bò mụ Rác
Là cháo vạt giường chị Rê
Là chén chè kê
Hay mấy dái mít non
O Hai trộn chung với ruốt
VI.
Đó là những đêm đốt đuốc
Rước chị Hằng xuống quê
Là những lần hội họ, họp nhánh phái, đắp đê
Là khi Chánh –Tiên, Luận – Hà có con trai con gái
Làng quê giờ này xôn xao mùa gặt hái
Càng nao lòng, nẫu ruột nhớ xa xăm
Võ Thị Như Mai
Friday, September 27, 2024
Chùm thơ Yên Tử Mùa Thu của Lưu Lãng Khách (Kỳ 2/2) - TIẾNG CHIM TRONG RỪNG THIÊNG YÊN TỬ - HỠI TRĂM CUNG NỮ - TRÊN ĐỈNH NON THIÊNG
TIẾNG CHIM
TRONG RỪNG THIÊNG YÊN TỬ
Em nắm tay anh lên rừng thiêng
Yên Tử Tùng-Mai-Trúc một miền
Mắt em trong vắt rừng xanh thắm
Lấp lánh bờ mi những bóng chim
Trúc xanh như vạn chàng trai trẻ
Giữa đời tự do hát nghêu ngao
Cội Mai như cụ già ngồi kể
Chuyện cổ ngày xưa trên núi cao
Rừng Tùng như những ông lão đứng
Trầm mặc uy nghi dõi bước trần
Tiếng chim nào thấm mùi kinh sử
Thánh thót dịu hòa nâng bước chân
Du dương trong rừng thiêng Yên Tử
Chở tiếng ai xa mãn cuộc trần
Tiếng hót đẹp như hoa khoe sắc
Thanh như tiếng chuông chùa vọng ngân
Ngọt ngào như gió quanh tượng Phật
Trong veo như tiếng sáo tiên đồng
Mượt như thảm nhung xanh ngút ngát
Mềm như mây trên đầu bềnh bồng
Một ngày đến với rừng Yên Tử
Như lạ trần gian cõi thất tình
Chiều xuống núi lòng tìm trang sử
Nghe tiếng chim hòa nâng tiếng kinh.
Lưu Lãng Khách
HỠI TRĂM CUNG NỮ
Thương cho các nàng hỡi trăm cung nữ
Quyết ngăn vua mà suối nhỏ trầm mình
Bên Giải Oan giữa chiều thu Yên Tử
Ôi vô minh! Ôi lục dục thất tình!
Hỡi các nàng- đáng thương hay đáng trách
Ta là vua có lẽ đã hồi cung
Sao có Phật hoàng lưu danh thiên cổ
Đổi ngai vàng lập Thiền phái Trúc Lâm
Thương các nàng- trăm đóa hoa xinh đẹp
Chẳng hiểu chi là trực chỉ nhân tâm
Chưa kịp biết vua- đạo đời không tách
Và Trúc Lâm Tam Tổ quả phi phàm
Bên Hồ Khê ngược giở trang cổ sử
Trỗi tiếc thương gần chết yểu tâm Thiền
Cúi mặt xuống nhìn những viên đá cuội
Chợt thấy lòng sao quá khó an nhiên
Các nàng hỡi! May kiếp này ta chẳng
Là quân vương tâm đạo bỏ ngai vàng
Đến Yên Tử cho thỏa hồn lãng tử
Chớ vì ta mà nhảy suối Giải Oan.
Thu 2024
Lưu Lãng Khách
TRÊN ĐỈNH NON THIÊNG
Đứng giữa Phù Vân đỉnh cao muôn trượng
Anh nắm tay em nhìn xuống loài người
Tay em trong mây nói lời cứu độ
Tóc lộng tung bay mắt phật em cười
Rừng Trúc rừng Tùng chùa am tháp cổ
Một cõi tâm linh thiêng khí ngút trời
Trúc Lâm Yên Tử từ trong nát đổ
Thiền phái hồi sinh ngả bóng xuống đời
Mùa thu xanh ngút ngát trời Yên Tử
Hoa trái mùa thơm ý kẻ hành hương
Ồ! Có phải tiếng chim trong rừng Trúc
Hót lời chi thánh thót cả thiên đường
Phải ta từng nghĩ Trúc Lâm Yên Tử
Thiền theo vua say giấc ngủ ngàn năm
Đã đến lúc nhìn lại mình đi chứ
Lối phật hoàng đi nào có xa xăm
Ta đi ta ca giữa trời Yên Tử
Trên đỉnh non thiêng lạ những lòng sầu
Phố Uông Bí tỏa nụ cười rạng rỡ
Bạch Đằng Giang như dải lụa khoe màu
Sau ngàn lá những chứng nhân lịch sử
Ngậm điều gì muốn gửi đến muôn sau
Phù Vân kỳ bí non thiêng hiền hòa
Khói mây lớp lớp đan tay lụa là
Từ trong phế tích ngân lời Đạo ca
Tùng- Mai – Trúc- cánh hạc nào bay qua.
Yên Tử mùa thu
Lưu Lãng Khách
<luulangkhach@gmail.com>
TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ (Kỳ 1/5) - Võ Công Diên biên soạn
TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ
Võ Công Diên
(Biên soạn lại dựa trên bài viết mà tôi đã thực hiện vào năm 2015 và nay 2018 được anh chị góp ý bổ sung thêm nhiều vốn từ mới.)
Như đã hứa cùng tất cả các anh chị em, tôi đã bổ sung sửa chữa và đăng lại, trong đó có các góp ý của các anh chị.
Chú ý :
1 - Mặc dù cũng phương ngữ Quảng Trị là chung nhưng vẫn có nhiều khác biệt, nhiều xã, nhiều làng dùng từ khác nhau, nói khác nhau và có khi cách hiểu khác nhau, nhưng chỉ chung đến một việc giống nhau hoặc ngược lại.
Ví dụ:
Ở trần = không bận áo, có bận quần
Ở lỗ = không bạn quần, có bận áo
Ở truồng = không bận áo lẫn quần
Tuy nhiên từ ở lỗ có người hiểu là không bận gì cả...
Tráu = là ít kỷ (mi tráu rứa) mầy ích kỉ thế
Nổi tráu = nổi giận (thằng tê hắn tráu rồi =thằng kia nó giận rồi)
Nỗi cáu = ý nghĩa như nối tráu
Nổi cọc = ý nghĩa cũng gần tương đồng "nỗi tráu" tùy theo làng xã
và ngữ cảnh cũng như người dùng
2 - Có khi một từ giống nhau nhưng có ý nghĩa khác nhau tùy theo
ngữ cảnh nó được đặt trong câu văn cụ thể.
Một số ví dụ về một từ viết và phát âm giống nhau nhưng ngữ nghĩa khác nhau, cách hiểu khác nhau:
Rạ = Chỉ cậy rựa
Rạ = Chỉ góc rạ
Rạ rời = rã rời = Chỉ mỏi mệt bủn rủn chân tay
Rạ = cây mạ = cây má (Gieo mạ, rạ) một vài vùng hiểu như thế...
Cấy đôn = Bồ chứa lúa, cấy đôn = Ghế ngồi của nhà khá giả
Eng = anh là vai anh, Eng = chỉ về phái nam
O = cô (O ruột em của Ba), O = chỉ về phái nữ
Ả = Chỉ về phái nữ, Ả = người chị
Cá lòng tong= cá ròng ròng
Út = chỉ vai em, O út chỉ về phái nữ nhỏ tuổi hơn với người xưng hô.....
Thiếm, hay Thím = vợ của chú ruột, hoặc chỉ về người lớn tuổi
nhưng nhỏ hơntuổi bố mẹ người xưng hô
3 - Có khi các từ khác nhau nhưng ý nghĩa lại giống nhau hoàn toàn...
Ba, Cha, Cậu, Chú, Bọ... chỉ về Cha nhưng cách gọi khác nhau, do
con khó nuôi...(QT vẫn gọi Bọ như người Quảng Bình.)
Vậy chúng ta chấp nhận có sự khác biệt các làng xã khác nhau dù
cũng là người Quảng Trị, không nên tranh luận cho làng xã mình là
chính xác hơn làng xã kia, hoặc thấy làng xã kia sử dụng từ ngữ làng
mình không có, mà vội kết luận từ đó không phải là của QT mà của
người Nam, Người Bắc... trừ trường hợp người viết bài hoặc người
góp ý có những nhầm lẫn hoặc sai sót về ý nghĩa từ, về chính tả...
4 - Các vùng miền từ Huế, Quảng Trị, Đồng Hới , Quảng Bình, và
Thanh Hóa Nghệ Tĩnh có một số tương đồng đến 70. 80% với
phương ngữ Quảng Trị.
5 - Có những từ mình nghĩ chỉ có người Quảng Trị mới sử dụng,
nhưng một số ít nơi khác vẫn dùng, chúng tôi vẫn xếp vào phương
ngữ Quảng Trị vì nó quá phổ biến ở Quảng trị
Vd :
Đi mần = đi làm, đa số người miền Nam nói là đi làm, nhưng vẫn có
một số rất ít người miềnTây nam bộ cũng nói "đi mần"
Lần đăng lại này có tập hợp bổ sung và phân loại kĩ càng hơn, tuy
nhiên không thể tránh khỏi lỗi đánh máy, hoặc sai chính tả, mong
anh chị em cứ góp ý để bổ sung hiệu chỉnh lại, không việc gì mà phải
e ngại. Từ điển thực hiện với sự góp sức của của nhiều người. Xin
cám ơn tất cả các anh chị em.
PHẦN TỪ ĐIỂN
Ăn kị = ăn giỗ
Ăn chùng = Ăn vụng
Ả = Chỉ về phái nữ, Ả chỉ về người chị
Ba gai =
Ba gai ba trợn …nhiều nghĩa chờ bổ sung
Ba lơn = Đùa giỡn (Nói ba lơn = nói giỡn chơi cho vui)
Ba trợn = ngỗ ngáo
Ba trợn = Hổn hào
Bàn chi = thứ gì "bàn chi" mi cũng cho vào mỏ hết...
Băn hăn bó hó = Nhăn nhó khó chịu
Bành xành = gần như vô duyên, thiếu tế nhị.
Bấp = vấp
Bấp lộ mô mà bổ va trọ cảy trôốc hung rứa ? = Đụng chỗ nào mà té
sưng đầu nhiều vậy ?
Béc /pheng = Banh ra
Beéng = Bánh
Bẹp = âm đạo
Bín = bí ngô
Bịn tay = vịn tay vào...
Bính = Bí (Bính ngô = bí ngô)
Bọ = Cha (Bọ mi = Cha mầy, giống với Nghệ Tĩnh, Quảng Bình)
Bổ = Ngã (Bổ trữa cươi = té ngã giữa sân)
Bợ = Vịnh tay vào một vật nào đó
Bờ hớ = Vô duyên (nói chuyện bớ hớ)
Bơ đọa = làm vậy bơ đọa (làm vậy rất mệt)
Bo trôốc = Gội đầu
Bóng = chụp bóng (Chụp hình, chụp ảnh)
Bợ= vịn
Bợc = bờ = trên bờ
Bơng = Bưng (Bơng lên = bưng lên, đỡ lên)
Bơng=bưng lên
Bưa bưa / vừa vừa = Tạm đủ rồi
Bựa chừ = Mấy bữa nay
Bựa ni = Ngày hôm nay
Bựa trưa, bựa chiều, bựa túi = buổi trưa, buổi chiều, buổi tối.
Bui = Vui
Bui hung = Vui lắm
Búi = Búi lắm (rối lắm) hiểu khác búi tóc
Bun = nhiều lắm (đầy bun = đầy lắm)
Bun= đầy, vun lên…
Cá dét = Cá chệch (Loại cá sống dưới bùn độ ẩm cao mà chỉ cần ít nước nước,
giống con lươn, cá chạch, cá kèo nhưng ngắn hơn)
Cá Đô = cá lóc, cá quả
Cá lóc = Cá quả nhỏ
Cá lòng tong = bầy lóc mở đẻ (cá ròng ròng)
Cá tràu = Cá quả lớn
Cá tràu = gọi là cá lóc lớn
Cá trợn = gọi cá lóc nhỏ
Cái bình = bường
(Còn tiếp)