Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, November 27, 2019

VÀI Ý VỀ CHỮ DÙNG TRONG THƠ (8) - Nguyên Lạc




VÀI Ý VỀ CHỮ DÙNG TRONG THƠ (8)
                                                                      Nguyên Lc
Tiếp nối theo loạt bài viết “Vài Ý Về Chữ Dùng  Trong Thơ” [*] đã đăng trên FB và các trang web, hôm nay tôi sẽ tiếp tục phân tích việc dùng chữ trong thơ qua việc trả lời cho nhóm tự gi là: CÁNH ĐẠI BÀNG của THI CA ĐƯƠNG ĐẠI VN.
ới cuối bài là copy Email của nhóm này [**], nó đã được h phát tán rộng khắp để tấn công cá nhân tôi, vì tôi dám "góp ý" về bài bình thơ "có cánh", dù dưới bài bình thơ này đ có ghi: "Rất mong nhận được những ý kiến trao đổi của các bạn!" 

BÀN VỀ HAI CHỮ MIÊN TRƯỜNG

Để hiểu rõ cụm chữ "miên trường", hy thử xét câu thơ sau đâyy:

"Miên trường trở giấc hồn cô quạnh" - XYZ

a. Như đ biết: Chữ Hán Việt là chữ Hán viết theo chữ Việt. Thí dụ  câu:         (thuần Hán) - Quân tại Tương giang đầu (Hán Việt) - Chàng ở đầu sông Tương (thuần Việt)
Trong các bài trước tôi đ phân tích: Tiếng Hán Việt cũng giống tiếng Anh: Tính từ đứng trước danh từ, khác với tiếng Việt
Thí dụ: Bạch mã (H) White horse (A) Ngựa trắng (V)
b. Theo ngha: Trường là dài, Miên là miên viễn = rất dài. Vậy tập hợp "Miên trường" ngha là dài dài, dài rất dài, dài dằng dặc.
- Câu thơ trên muốn nói gì?
- Nếu muốn nói đang ngủ rồi trở giấc, ta phải nói "Trường miên", vì  Trường là dài, Miên là ngủ; Trường miên là giấc ngủ/ giấc mộng dài. Do đó câu thơ trên phải được viết: "Trường miên trở giấc hồn cô quạnh".
c. Ta biết rõ tác giả câu thơ trên đã "mượn" 2 chữ Miên trường trong bài thơ "Chào Nguyên Xuân" của cụ Bùi Giáng.
- Trong bài thơ Chào Nguyên Xuân, theo tôi hiểu cụ Bùi Giáng ̣đùa với 2 chữ Miên trường trong câu thơ "Mùa xuân phía trước miên trường phía sau". Miên trường như giải thích trên là dài dài. Ghép vào câu thơ nó có nghĩa tếu: "Mùa xuân phía trước dài dài phía sau": Phía trước mùa xuân vui thì phía sau cũng dài dài ... mùa xuân vui. Phải cụ đùa không?
- Vâng, cụ đùa nhưng cười ra nước mắt. Đó là cái tuyệt vời của Bùi Giáng:  Câu thơ vui, nhưng thường ẩn trong đó là sự não lòng. Phía sau "dài dài" cũng có thể mùa thu hay mùa đông , mùa sầu mùa nhớ...
Đây là câu thơ có sự đối tỷ, sự so sánh trước và sau: Trước là mùa xuân thì sau phải mùa xuân hay mùa nào đó. Trước là cảm xúc- mùa xuân vui - thì sau phải cũng là cảm xúc - mùa vui hay buồn nào đó - chứ không thể là giấc ngủ/ giấc mộng - nếu hiểu miên trường là giấc ngủ/ giấc mộng dài (?).

Người "hậu bối" làm thơ sao không suy ngh cho thông nghĩa, lại vội vàng hít hà rồi "cố tình nhét đại" vào các câu thơ "nghiêm chỉnh" của mình, vô tình "hại" cụ Bùi, phải không?

BÀN VỀ TÀ HUY VÀ ĐOÀI

Sau đây là lời trong Email của nhà bình luận Nguyễn Xuân Dương mà "nhà thơ" Đỗ Anh Tuyến đ phát tán rộng khắp trong nhóm "Elites" của các ông để chê tôi "không biết gì".

"Theo ông Nguyễn Khôi thì trong bốn bài gọi là thơ đăng trong THƠ BẠN THƠ 9 thì có ba bài ông sử dụng cụm từ BÓNG TÀ HUY, TÀ HUY, TÀ HUY BAY cụm từ này độc nhất chỉ có thi sỹ Bùi Giáng sử dụng trước đây. Tôi tin một cách chắc chắn rằng ông Nguyễn Lạc không biết nghĩa của cụm từ BÓNG TÀ HUY BAY, ông thấy lạ thì ông ăn cắp thôi ạ. Còn vào trang ông ấy đọc những cái gọi là thơ của ông ấy thì càng chứng minh ông rất ngô nghê và thơ thuộc loại thiểu năng trí tuệ khi ông đưa ra từ PHƯƠNG ĐOÀI rồi ông chú thích "Phương đoài là phương tây, nhìn từ nước Mỹ". Nghe cứ cười đến vỡ bụng mất thôi". - Lời ca Nguyễn Xuân Dương

Tôi s vận dng cái đầu "thuộc loại thiểu năng trí tu" để xét cm chữ Tà huy và chữ Đoài mà ông Nguyễn Xuân Dương đ chê tôi "không biết nghĩa" xem sao.

I. Tà huy
Tà huy: The setting sun, sun set, sun đown - Tiếng Anh

Xin ghi lại lời "vàng ngc" của ông Nguyễn Xuân Dương :

"Tôi tin một cách chắc chắn rằng ông Nguyễn Lạc không biết nghĩa của cụm từ BÓNG TÀ HUY BAY, ông thấy lạ thì ông ăn cắp thôi ạ" - Lời NXD

Tôi sẽ phân tích cụm chữ "Tà Huy" để trả lời đến các "nhà thông thái" Nguyễn Xuân Dương và Đỗ Anh Tuyến:

1. Kết hợp Tà huy có thể hiểu trên cơ sở lắp ghép nghĩa của các thành tố tạo nên nó:
Tà huy do ghép 2 chữ: Tà và Huy
-Tà : lệch, vẹo, nghiêng, xiên, chéo, dốc
- Huy :Ánh sáng (mặt trời), nắng, ánh nắng
Nghĩa của  c kết hợp Tà huy giống như Tà dương
- Ánh mặt trời chiều ngả về tây -Từ điển trích dẫn
- Ánh nắng nghiêng của buổi chiều.- Từ điển Nguyễn Quốc Hùng

2. Tà dương
Dương :
- mặt trời
- dương: Trong âm dương - Lưỡng nghi (NL)

Tà dương là mặt trời xế về tây - Từ điển Nguyễn Quốc Hùng

3. Về "Bóng tà huy bay"

- Tà huy, ánh sáng mặt trời chiều rọi vào cây cối, nhà cửa, núi đồi vân vân... tạo ra những bóng nghiêng. Do mặt trời chiều từ từ lặn, các bóng từ từ nghiêng thêm, nếu có thế nói là chạy dần trên mặt đất; làm sao gọi là bay được mà viết là "bóng tà huy bay"? Viết "Bóng tà huy nghiêng" thì có thể chấp thuận được.
Hai ông nói:"chắc chắn rằng ông Nguyễn Lạc không biết nghĩa" vậy nhờ giải thích giùm làm sao "bóng tà huy" BAY? Tôi đang "đứng dựa cột" chờ nghe "lời vàng ngc" đây.
- Xin được thưa thêm, nếu câu thơ được viết như thế này thì "đắc địa":  "Áo tà huy bay":
Áo em màu nắng chiều đang bay không đẹp sao?

4. Tà huy, tà dương cũng gợi ý đến tuổi cuối đời, tuổi xế chiều ...

II. Đoài

Xin ghi lại "lời vàng ngc" của ông Dương:

"Còn vào trang ông ấy đọc những cái gọi là thơ của ông ấy thì càng chứng minh ông rất ngô nghê và thơ thuộc loại thiểu năng trí tuệ khi ông đưa ra từ PHƯƠNG ĐOÀI rồi ông chú thích "Phương đoài là phương tây, nhìn từ nước Mỹ". Nghe cứ cười đến vỡ bụng mất thôi". Nguyễn Xuân Dương

Tôi đ hỏi hai ông tại sao "cười đến vỡ bụng"? Sai chổ nào xin giải thích? Tôi xin "rửa tai chờ "lời vàng tiếng ngọc" của các ông, nhưng không thấy các ông trả lời. Thôi thằng tôi " thiểu năng trí tuệ" này phải tự giải thích xem sao:

- Tại sao phương Tây gọi là phương ĐOÀI? Vì trong Hậu Thiên Bát Quái của Dịch: Quẻ Đoài nằm ở hướng Tây, ngược với nó là quẻ Chấn nằm ớ hướng Đông. Chính vì điều này người ta mới gọi phương/ hướng Tây là phương/ hướng Đoài.

- Khi tôi chú thích 2 chữ PHƯƠNG ĐOÀI trong bài thơ, trên tay tôi có quả cầu vẽ hình thế giới: Mỹ tôi đang sống cách VN qua biển Thái Bình Dương- Pacific Ocean, VN gọi là Biển Đông; VN ở phuơng tây, phương mặt trời lặn nếu nhìn từ Mỹ.

- Do những điều nhận xét trên, tôi mới chú thích:

"Phương đoài (Phương tây): Danh từ địa lý và ước lệ: nói lên sự thương nhớ, hoài niệm nhớ về. VN ở phuơng tây nhìn từ Mỹ" (Bài thơ Góc quê hương sau nhà)

Sao? lời giải thích của kẻ "thô thiển trí tuệ" này ra sao? Xin lãnh giáo.

-- Xin ghi thêm:

-Trong các câu thơ của tôi, Đoài ngoài nghì̃a địa lý là phương hướng tây; nó còn hàm ý là phương thương nhớ, vùng ký ức... và còn là cõi về của người : "về cõi Tây phương" = chết.

- Đoài cũng có nghĩa đoài đoạn - "thương nhớ đoài đoạn":

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
ôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng)

Nên nhớ người xưa có câu "... dựa cột mà nghe", chắc tôi không cần viết trọn câu?

LỜI KẾT

- Thơ phải tự nhiên như hơi thở. Đừng cố tìm những từ thật kêu, những cấu trúc thật lạ nhưng không chút cm xúc, trống rỗng, vô hồn. Thơ bật ra từ cảm xúc, từ tâm thức chứ không phải từ cái đầu, từ lý trí.
- Đừng nên "ợn" người trước, người khác những chữ mà mình không hiểu rõ nghĩa , không biết cách sử dụng; cố tình gán ghép càn vào thơ mình để "tạo dáng", mà không biết rằng câu thơ có khi trở thành sáo rỗng, vô nghĩa.

Nguyên Lạc
..................
[*] Vài Ý Về Chữ Dùng  Trong Thơ- Nguyên Lạc
[**]. Đây là lời trong Email của nhóm "Đi Bàng":
[ ... Chú Bùi Mạnh Hiệp còm dưới bài "Nguyên Lạc và những chày cối":
"Mình nghĩ thế này Xuyến ạ: Thắng thua làm gì... Nếu là đại bàng thì dù giông bão đại bàng vẫn cất cánh bay- nhưng nếu là con sâu con kiến... có châm nọc đốt người.... mãi mãi vẫn chỉ là loài sâu loài kiến. Để thời gian quý báu mà chăm con, sáng tác thơ văn chia sẻ với bạn bè, chấp gì loại sâu kiến làm mình cũng nhỏ đi."
Anh thấy chí lí đấy Tuyến ạ.
Việt Kháng
From:thanh tuan<datinh_1974@yahoo.com>
Date: Wed, Nov 20, 2019 at 9:24 AM... ]

3 comments:

Bâng Khuâng said...

Tiếng “miên” trong từ “miên trường” không phải là “trường miên” (giấc ngủ dài)

1/
綿 MIÊN :
a/ Dài. Lâu dài.
Td: Liên miên, triền miên.
b/ Nối tiếp không dứt

Một số từ kép Hán Việt có tiếng “miên”:
liên miên 連綿 • miên diên 綿延 • miên dương 綿羊 • miên man 綿蠻 • miên trường 綿長 • miên viễn 綿遠 • triền miên 纏綿

遠 VIỄN
1. Xa, dài, lâu. (Đối lại với “cận” 近)
- “diêu viễn” 遙遠 xa xôi
- “vĩnh viễn” 永遠 lâu dài mãi mãi.
2. Sâu xa, thâm áo.
- “thâm viễn” 深遠

3/
綿遠 MIÊN VIỄN:
a/ Dài, lâu dài
b/ Xa xôi

4/
長 TRƯỜNG
(Âm Hán Việt: tràng, trường, trướng, trưởng, trượng)
1. dài
2. lâu

5/
綿長 MIÊN TRƯỜNG:
a/ Tiếp tục lâu dài.
- Tây du kí 西遊記: “Phổ dụ thế nhân vi thiện, quản giáo nhĩ hậu đại miên trường” 普諭世人為善, 管教你後代綿長 (Đệ thập nhất hồi).
b/ Lâu dài.
b/ Xa, dằng dặc.
- Lưu Tri Cơ 劉知幾: “Cương vũ tu khoát, đạo lộ miên trường” 疆宇修闊, 道路綿長 (Sử thông 史通, Tự truyện 序傳).

Bâng Khuâng said...

Trong chùm thơ “Cảm đề La porte étroite” in trong phần Phụ lục của truyện dài “Khung cửa hẹp” (La porte étroite, tác giả André Gide) do Bùi Giáng dịch, có bài thơ sau:

CẢM ĐỀ LA PORTE ÉTROITE GIDE TẶNG SOPHOCLE

Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
Em về thảng hoặc mai sau
Diệu Hoa lầu các đêm nào hoá sinh
Còn nghe cơn cớ bất bình
Đầu xuân rất mực biên đình ra hoa

Em về giũ áo mùa sa
Trút quần phong nhụy cho TÀ HUY BAY

Bùi Giáng

Bâng Khuâng said...

Có những từ kép Hán Việt nhưng dễ lầm là từ láy thuần Việt. Chẳng hạn:

TRIỀN MIÊN 纏綿
- Ràng buộc, vướng mắc
-Quấn quýt không gỡ ra được (vương vấn không dứt).

MIÊN MAN 綿蠻
Từ Hán-Việt miên (“kéo dài”) + man (“nước tràn ra”).

- Hết cái này sang cái khác, tiếp liền theo nhau không dứt
Vd: suy nghĩ miên man, sóng vỗ miên man

- Đồng nghĩa: liên miên