Tác giả Hoàng Đằng
CƠM VÀ CÁ
Tùy bút của Hoàng Đằng
Thuở còn bé, mình ra đường, gặp người bà con,
làng xóm; họ tỏ tình thân, xoa đầu mình rồi hỏi:
- Trưa nay cháu ăn chi?
Những lần đầu, mình thật thà, ăn gì nói nấy:
- Cháu ăn khoai lang chấm muối. Cháu ăn cơm với rau lang luộc
chấm nước ruốc.
Thời xưa ấy, cái nghèo tấn công mọi sinh hoạt
trong đời sống con người, đặc biệt là bữa ăn. Đâu chỉ gia đình mình ăn vậy mà
đa số dân cả làng, cả nước phải ăn vậy để sống, thậm chí có nhà phải đào củ
chuối nấu ăn trừ bữa, ăn cám rang trộn với tựa trái muồng phơi khô giã thành
bột; cám ăn vào miệng, dù nham nhám, nhờ cái vị ngọt ngọt, cũng nuốt được.
Dân số nước ta trong thập kỷ 1940 mới chỉ trên
dưới 20 triệu; đất còn rộng, người còn thưa; mà không đủ ăn, do cách làm ăn còn
non kém, chứ lượng lương thực, thực phẩm tiềm tàng trong thiên nhiên lớn lắm;
ruộng đồng bao la, tôm cá đầy biển, đầy sông, đầy ao hồ. Trồng trọt thì nhờ
trời, không thủy nông, không giống mới, không phân bón … Đánh bắt cá thì phương
tiện tối tân nhất !!! chỉ là chiếc thuyền nan với lưới đã to sợi lại đan thưa
mắt …
Rồi khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp ở nước
ngoài phát triển, du nhập vào nước ta, dân ta bắt chước, áp dụng; nông sản dồi
dào lên; bữa ăn no dần về chất và lượng; trẻ ở thế hệ sau mình được người ngoài
hỏi:
- Đến bữa, bố mẹ cho cháu ăn chi?
Chúng trả lời không chút suy nghĩ:
- Ăn cơm với cá.
Bữa cơm của người Việt được tạo nên do nhiều
thứ: cơm, cá, thịt, rau, củ, quả, gia vị ..., trong đó, cơm và cá được mặc định
là hai thứ chính. Bữa cơm có cơm và cá là chỉ dấu một gia đình khá giả.
Tuy có gián đoạn hoặc do mùa màng thất
bát, hoặc do bom đạn khiến ruộng đồng bỏ hoang, hoặc do chiến tranh khiến nông
dân bỏ ruộng đồng tản cư, hoặc do nông dân mất hứng thú trong công việc đồng
áng trước chính sách tập thể hóa quá mới mẻ của chính quyền, thời gian mà đa số
người Việt có cơm có cá ăn kéo dài cũng đã hơn 60 năm rồi (từ khi kết thúc
chiến tranh Việt – Pháp 1954). Và hy vọng sẽ mãi như thế!
Tuy nhiên, thời gian gần đây, TV nhà nước cứ
loan những tin khiến mình – giờ đã là một ông già có tính gàn – đâm hoảng.
Cơm đến từ gạo, gạo đến từ thóc, thóc đến từ
đất đai. Vậy mà đất đai nước mình đang bị thu hẹp. Vựa lúa chủ yếu của nước
mình là đồng bằng Nam Bộ; đồng bằng này đã không còn phù sa mấy bồi lợp. Các
nước thượng nguồn sông Mê-kông như Trung Quốc, Thái Lan, Lào xây đập thủy điện,
thủy nông, đào kênh rạch chia nước khiến nước không về đều đặn; nước không về
thì phù sa không có, mà xưa nay, phù sa đã mang lại nhiều lợi ích: trải màu mỡ
lên ruộng đồng, bồi lấn biển dần mở rộng đất đai.
Cộng thêm đô thị hóa và hiện đại hóa đất nước
đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều; một trong những vật liệu cần cho xây
dựng là cát. Cát đang ngày đêm được nạo vét từ các dòng sông; dòng sông hẳm thì
đất hai bờ phải lở xuống; lở đất thì mất đất.
Với lại khí hậu quả đất ấm lên do khí thải
công nghiệp, do rừng bị tàn phá gây hiệu ứng nhà kính làm băng ở địa cực tan
nâng nước các đại dương dâng cao tràn vào nhấn chìm những vùng đất thấp và
nhiễm mặn những vùng có cao độ hơn. Đồng bằng Nam Bộ chịu tác hại nặng nhất.
Không những thế, nước ta, sau nhiều thế kỷ,
nhắm mắt, không chịu phát triển, bây giờ, mở mắt ra, thấy thua kém quá nhiều
nước, đặc biệt ở lãnh vực mở mang đô thị và công nghiệp hóa; hoảng hốt, muốn
làm “bước nhảy vọt”, bằng cách mở thêm và mở rộng các đô thị, khu vui chơi giải
trí, khu công nghiệp … Nhiều vùng đất trồng lúa bị thu hồi, san lấp để lập gia
cư, cơ sở hạ tầng … Những diện tích tương đương mất theo để xả thải; đặc biệt
các khu công nghiệp. Ôi thôi! Trong công nghiệp nặng, nước ta đang thu dung
những công nghệ bẩn – làm ô nhiễm môi trường – mà các nước phát triển tìm cách
đưa ra khỏi nước họ qua các dự án đầu tư (Formosa là một minh chứng); trong
công nghiệp chế biến, các quy định bảo vệ môi trường không chặt chẽ khiến chủ
doanh nghiệp lợi sụng kẽ hở xả thải bừa bãi để bớt chi phí sản xuất.
Diện tích trồng lúa đã không còn màu mỡ lại bị
thu hẹp; sản lượng lúa gạo giảm trong khi dân số càng ngày càng đông. Dù thâm
canh đến đâu, nông sản có ngày sẽ không đủ cho nhân dân dùng, trừ phi các thực
phẩm hóa học: gạo hóa học, thịt hóa học, rau hóa học … được sử dụng.
Cơm thiếu; còn cá thì sao?
Môi trường cho cá sinh sống – nước - đang bị
nhiễm bẩn – nhiễm bẩn do chất thải sinh hoạt và công nghiệp quá nhiều; người
quá đông rồi mà! Nước đã nhiễm bẩn thì sự sinh sản và sinh trưởng của các loài
thủy sản bị hạn chế, thậm chí bị hủy diệt hàng loạt. Điều đó đang xảy ra trên
đất nước ta. Chỉ kể vài vụ trong riêng mấy tháng đầu năm 2016 thì rõ:
Đầu tháng 4/2016, nhà máy thép Formosa ở
Vũng Áng Hà Tĩnh xả thải chứa nhiều độc chất ra biển làm cá chết khoảng mấy
trăm tấn tràn vào bờ 4 tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên – Huế .
Đầu tháng 7/2016, các trại nuôi heo công
nghiệp, các nhà máy chế biến mủ cao su, tinh bột sắn ….. ở thượng nguồn sông
Sài Gòn xả thải xuống dòng sông; nguồn nước bị ô nhiễm khiến cá chết hàng loạt
– nghe nói khoảng 2 tấn - nổi trắng mặt nước.
Đầu tháng 9/2016, dòng nước đen ngòm chảy ở
sông Sa Lung huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị làm cá chết hàng loạt nhiều ngày;
màu đen ngòm ấy của nước cũng do nhà máy nào đó ??? – hình như nhà máy chế biến
mủ cao su - xả thải, nhưng người ta không tìm ra và nắm được chứng cứ để quy
tội!!!
Đầu tháng 10/2016, nước thải dân cư ở thủ đô
Hà Nội trút xuống Hồ Tây, nước hồ thiếu oxy, cá chết ngạt khoảng 200 tấn.
Đó là cá tự nhiên, còn cá nuôi cũng không
thoát khỏi tác hại của nguồn nước ô nhiễm. Mới ngày 13/10/2016, cá nuôi bè tại
làng bè Long Sơn, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng chết hàng loạt; cuộc sống của dân
nuôi cá khốn đốn.
Cứ đà này, cá có ngày chẳng còn để ăn. Như
thế, cơm sẽ thiếu, cá cũng sẽ thiếu.
Thời bình, sự trao đổi từ miền này qua miền
khác, từ nước này qua nước khác đang trôi chảy thì vấn đề cơm cá cho mọi người
dân chưa phải khó giải quyết. Tuy nhiên, “cư an tư nguy” (lúc bình yên phải lo
lúc nguy biến); lỡ chiến tranh xảy ra, thì sao?
Nhớ lại nạn đói cuối năm 1944 và năm 1945 làm
dân ta chết 2 triệu người ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (lúc đó dân số cả nước chỉ
khoảng 20 triệu người) mà rùng mình! Ngoài thời tiết không thuận lợi khiến mùa
màng thất bát, hai nguyên do chính của nạn đói là chiến tranh và chính sách
thời chiến của nhà cầm quyền. Chiến tranh cắt đứt giao thông, miền Nam dư gạo
mà không chở ra Bắc được; chính quyền Nhật và Pháp đã thu mua hết lúa gạo trong
dân để phục vụ chiến tranh, lại bắt nông dân chuyển ruộng trồng lúa sang trồng
đay, ngoa ngoạnh tuyên truyền đay có giá cao hơn lúa. Thế là hết gạo trong nhà,
hết thóc ngoài đồng, gạo không còn bán ở chợ, người dân chỉ còn con đường chết
đói.
Hiện tại, chúng ta đang sống trong hòa bình;
nhưng nguy cơ chiến tranh đang rình rập; không phải chiến tranh giữa dân ta với
dân ta mà chiến tranh giữa các siêu cường có thể lôi cuốn nước ta vào vòng xoáy
và có thể dùng nước ta làm bãi chiến trường do tầm quan trọng của vị thế địa
chiến lược. Khi ấy, nguồn lương thực, thực phẩm không có tại chỗ, dân ta sống
sao đây!
Nông nghiệp có 2 loại: nông nghiệp sản xuất để
dùng (subsistence crop) và nông nghiệp sản xuất để bán (cash crop); ngày xưa,
nền nông nghiệp sản xuất để dùng được chú trọng, nó không làm cho nông dân
giàu, nhưng nó đem đến cuộc sống bền vững, ổn định cho nông dân từ đời này qua
đời khác, nhà minh triết Lê Quý Đôn đã viết: “Phi nông bất ổn” (Không có nông
nghiệp thì không ổn), và người xưa dù quan niệm “phi thương bất phú” (không có
thương mãi thì không giàu), vẫn cho rằng “dĩ nông vi bổn” (lấy nông nghiệp làm
gốc). Thành thử, đừng bỏ rơi nông nghiệp sản xuất để dùng mà
chú trọng quá mức vào nông nghiệp sản xuất để bán. Giá nông sản trên thị trường
không ổn định, lúc lên lúc xuống, làm cho nông dân, ngay ở thời bình, khi thì
hồ hỡi phấn khởi khi thì lao đao lận đận.
Hiện nay, chạy theo nền nông nghiệp sản
xuất để bán, người ta đang muốn ruộng đồng tập trung lại giao cho một ít doanh
nghiệp; với kỹ thuật canh tác hiện đại: chọn giống, chọn phân, dùng máy móc
trong các khâu gieo trồng, bón phân, thu hoạch …, nông sản sẽ tăng vừa về chất
vừa về lượng mà lao động sử dụng ít. Đỡ công mà lời nhiều! Nghe thì sướng tai!
Tuy nhiên, mấy chục triệu nông dân sẽ làm gì? Xuất khẩu lao động ư! Những nước
nào nhận được hết? Biến nông dân thành công nhân ư! Nhà máy đâu để thu dung được
hết! Chỉ còn viễn cảnh trong cộng đồng số “thợ đụng” – gặp việc gì làm việc ấy
– đông thêm, ngoài đường phố, số người lang thang không nghề nghiệp ổn định
hoặc làm những việc phi pháp nhiều lên. Tình trạng xã hội sẽ rối rắm, lộn xộn
ngoài sức kiểm soát.
Người ta đang nôn nóng làm sao tỉ trọng công
nghiệp trong nền kinh tế nâng lên mà tỉ trọng nông nghiệp giảm xuống. Các nước
hiện đại đều như thế cả. Nhưng hoàn cảnh và điều kiện nước ta không như các
nước ấy. Về công nghiệp và dịch vụ, họ đi trước ta hàng trăm năm; muốn kịp họ,
nước ta chỉ “nhảy vọt” mà nhảy vọt thì ngã, thêm đau xác! Còn “đi tắt đón đầu”
thì e rằng càng đi tắt để đón đầu càng lạc đường!
Mỗi nước phải chọn con đường riêng để đi, để
phát triển tuỳ điều kiện, hoàn cảnh và nguồn nhân vật lực của mình. Phát hiện
con đường đó là trách nhiệm của những nhà lãnh đạo - những nhà lập chính sách! Chỉ có điều là mọi người “tự thiên tử dĩ chí
ư thứ dân” có xem đất nước này là thật sự của mình không hay chỉ là nơi kinh
doanh để làm giàu, giàu rồi tìm nước khác để sinh sống!!!
Có đọc sử thì mọi người tin rằng người Việt đủ
khôn khéo để tìm được cách phát triển đất nước hài hoà, nước ngoài phải kính
nể, chỉ sợ thiếu cái tinh thần “chí công vô tư”.
Viết đến đây, tôi nhớ giai thoại “chọi trâu”
(1) do nhà nghiên cứu lịch sử Trương Thái Du kể trong bài “Tiếng trống đồng Mê
Linh” (tháng 4 năm 2005):
Tàn quân của Hai Bà Trưng trốn quân Nam Hán,
lưu lạc đến tận eo biển Malacca, cập bờ Tây đảo Sumatra, định cư và trở thành
một bộ tộc. Bộ tộc này có tranh chấp đất đai với một bộ tộc kế cận. Muốn tránh
đổ máu, bộ tộc gốc Việt đề nghị hai bên chọn hai con trâu để đấu, trâu bên nào
thắng thì bên ấy thắng. Bộ tộc kia chọn một con trâu đực “nổi”, sừng dài nhọn
hoắt, cổ bự to; trong khi đó, bộ tộc gốc Việt tìm một con trâu nghé mới nhú
sừng. Con trâu nghé bị cách ly mẹ và bỏ đói nhiều ngày. Trận đấu mở màn, con
trâu nghé tưởng con trâu đực “nổi” kia là mẹ, rúc đầu vào giữa hai chân sau
trâu đực tìm vú bú; hai sừng mới nhú đâm vào bụng và dái trâu đực “nổi”; con
trâu đực vừa nhột vừa đau, vọt chạy. Thế là trâu của bộ tộc gốc Việt thắng;
theo giao ước ban đầu, phần đất tranh chấp thuộc về bộ tộc gốc Việt. Do vậy, bộ
tộc gốc Việt ở địa phương có tên là Minangkabau – Minang là chiến thắng, kabau
là con trâu.
Đọc chuyện xưa mà ngẫm việc nay! Lẽ dĩ nhiên,
chuyện xưa ấy không áp dụng vào thời nay được. Người thời nay chỉ thừa kế, vận
dụng cái khôn của người xưa, phát huy sáng kiến mà giải quyết việc hiện tại,
phóng tầm nhìn về tương lai, làm sao nước ta trở nên tươi đẹp, dân ta
trở nên yên vui. Người viết bài này, trước mắt, không thích mục tiêu “nước
mạnh, dân giàu” mà giàu và mạnh có được bằng cách kết bè, lập nhóm giành giật
quyền và lợi, tạo ra bất công, bất bình. Hãy nhớ lời dạy của cố chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo mà chỉ sợ
lòng dân không an”
Hoàng Đằng
13/10/2016
.......................
1) Chuyện này có người kể là Trạng Quỳnh đem trâu nghé chọi trâu “nổi” của sứ thần Tàu.
.......................
1) Chuyện này có người kể là Trạng Quỳnh đem trâu nghé chọi trâu “nổi” của sứ thần Tàu.
No comments:
Post a Comment