Cồn Cỏ nhìn từ xa
theo hướng Tây-Đông
THĂM ĐẢO CỒN CỎ
Cách bờ
biển tỉnh Quảng Trị gần 30 km, nổi lên một hòn đảo.
Từ xa theo
hướng Tây Đông, tùy tưởng tượng của người nhìn, đảo có thể trông như một con
cọp no mồi, nằm nghỉ, duỗi mình, đầu về hướng Nam, đuôi về hướng Bắc, vì vậy
đảo có tên là hòn Con Cọp; đảo cũng có thể trông như một phụ nữ nằm ngửa, đầu
hướng về Nam, chân duỗi thẳng về Bắc, bụng nhô cao như ôm một đứa cháu nhỏ đang
nằm sấp chồng lên mình, vì vậy đảo còn tên Hòn Mệ. Tên thông dụng nhất của đảo
là Cồn Cỏ, có lẽ ngày xưa, ngư dân hoạt động giữa biển khơi, phát hiện ra đảo,
ghé vào một phía bờ nào đó có bãi cỏ.
Đã lâu rồi,
tôi ngỏ ý với người thân quen muốn đi thăm đảo một lần cho biết. Ngày 23 và
24/7/2016, ý muốn của tôi đã được toại nguyện. Con dâu út của tôi liên lạc với
dịch vụ du lịch của Sepon Resort đóng trụ sở ở Cửa Việt mua cho một vé.
Giá vé 1,5
triệu đồng gồm tàu đưa ra, vô + 4 bữa ăn + 1 đêm ngủ nhà khách trên đảo + hướng
dẫn tham quan + phí đưa đón trên đảo bằng loại xe “bán tải” – loại xe như xe
điện phục vụ ở các khu du lịch nhưng vận hành bằng xăng.
Từ bến tàu
Cửa Việt, Sepon Resort tổ chức mỗi tuần 2 chuyến đi đảo bắt đầu từ tháng 4 năm
2016 đến giờ: Một chuyến khởi hành sáng Thứ Tư và về trưa Thứ Năm; một chuyến
khởi hành sáng Thứ Bảy và về trưa Chủ Nhật. Giờ rời đất liền xê xích trong
khoảng từ 6:30 giờ đến 7 giờ; giờ đến đảo xê xích trong khoảng từ 8:30 giờ đến
9 giờ. Giờ rời đảo khoảng 9 giờ; giờ trở lại đất liền khoảng 11 giờ. Hải trình
giữa đất liền và đảo mất khoảng 2 giờ.
Hành khách
chưa có vẻ tấp nập, chỉ gồm có bộ đội đi phép, đi công tác, dân ở đảo về thăm
nhà, khách du lịch đi tua (tour) theo đoàn.
Tôi được
ghép vào đoàn do nhà máy Tinh Bột Sắn ở huyện miền núi Hướng Hóa mời lãnh đạo các
xã vùng trồng sắn nguyên liệu đi du lịch như một dịp thưởng công.
Tàu du lịch
cỡ nhỏ chở độ 30 người. Chuyến tôi đi ra gặp ngày nắng; tuy nhiên, do gió
nhiều, khi mới rời Cửa Việt, con tàu lên xuống như ngựa phi, khi ra giữa khơi,
tàu chòng chành, lắc lư qua về. Nhiều người, dù còn trẻ tuổi, say sóng, nôn. Ơn
Trời, tôi già cả vẫn không sao, có lẽ nhờ nhai ngậm củ gừng trong miệng, chỉ
hơi mệt. Tôi ngẫu hứng 2 câu lục bát:
Nên đi cho
biết đảo Cồn
Cỏ không thấy mấy; say nôn đã đời!
Cỏ không thấy mấy; say nôn đã đời!
Chuyến về,
nhờ ít gió hay nhờ đã quen với đi biển, tôi cảm thấy tàu chạy êm hơn.
Khi tôi
bước chân lên đảo, thắc mắc đầu tiên là không thấy bãi cỏ nào trước mắt; anh
hướng dẫn viên cho biết có những đám cỏ không lớn hoặc nằm lõm giữa rừng hoặc
nằm sát bờ biển ở các phía khác. Đảo chỉ rừng và những công trình xây dựng:
doanh trại quân đội, trụ sở đầy đủ các
cơ quan của một đơn vị cấp huyện.
Đảo không
rộng, nghe nói trước đây, có diện tích 4 km2, nhưng do xói lở, nay chỉ còn 2,2
km2. Để chận hiện tượng xâm thực thu nhỏ dần đảo, Nhà Nước đã đầu tư xây kè.
Tôi không biết đã kè xong quanh đảo chưa, nhưng những đoạn bờ biển được hướng
dẫn đi qua, tôi thấy đã có bờ kè.
Hình dáng đảo nhìn từ trên cao
Xin mở
ngoặc: Đảo Cồn Cỏ nằm ở vĩ độ 17°05’. Thời xa xưa, đảo chỉ là nơi thuyền đánh
cá ngư dân ghé vào nghỉ ngơi. Theo hiệp định Genève, đảo nằm Bắc vĩ tuyến 17,
dưới quyền quản lý của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Theo cô hướng dẫn viên ở
Phòng Truyền Thống trên đảo, năm 1959, chính quyền miền Bắc mới đưa bộ đội ra
đồn trú canh giữ. Trong chiến tranh, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt ở đảo;
một bên là lực lượng bộ đội canh giữ dưới đất và một bên là máy bay quân đội Mỹ
trên trời. Trên đảo, hiện có một đài Tưởng Niệm cao ghi tên các anh hùng, liệt
sĩ hy sinh. Sau khi thống nhất đất nước, năm 2004, từ một đơn vị trực thuộc xã
Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Linh, Nhà Nước nâng cấp đảo lên đơn vị hành chánh cấp
huyện, trực thuộc tỉnh Quảng Trị.
Ngoài các
công trình quân sự và hành chánh, trên đảo hiện có 2 xóm nhà dân; những gia
đình này là những cặp vợ chồng còn son trẻ, theo tiếng gọi của Nhà Nước, từ các
xã của huyện Vĩnh Linh, ra đây định cư từ năm 2002. Nhà Nước đã xây xong thêm
một cụm khoảng 10 nhà để đón một số hộ mới, như vậy cư dân trên đảo sẽ tăng
lên; theo tài liệu, hiện thời khoảng 400 người. Dân ở đảo chủ yếu làm những
công việc phục vụ đảo (điện, nước, nhân viên nhà khách, dọn rác …), sống bằng
lương và kinh doanh dịch vụ ăn uống nhỏ ở nhà. Nhà Nước cũng xây xong vào tháng
11 năm 2015 một trường vừa Mầm Non vừa Tiểu Học khá lớn, lấy tên trường Hoa
Phong Ba để lo việc học cho các cháu sinh ra trên đảo,
Khu vực có
người ở (kể cả quân sự và hành chánh) chiếm chưa tới 1/3 đảo, còn lại là rừng.
Nhiều đường nhựa hoặc bê-tông xẻ ngang, xẻ dọc chia rừng ra từng ô. Rừng ở đây
không có cây cao, nghe nói có một vài loại cây gỗ tốt như chò chỉ, dầu máu –
loại cây, nếu bị chặt vào thân, ra mủ đỏ như máu. Thân cây ở đây khẳng khiu,
tán lá, dù xanh tươi, không rộng lắm; chim chóc không thấy, muông thú cũng
không thấy; khác hẳn với rừng trong đất liền, thân cây to, cao; trên cây nhiều chim chóc đua nhau hót khi
bình minh lên; dưới đất nhiều loài động vật hoang dã đua nhau gầm rú về đêm.
Còn đảo thì lặng lẽ, bình yên!
Hiện tại ở
đảo có đàn bò nuôi và dê nuôi, nghe nói, đến trăm con, thức ăn chủ yếu là lá
rừng; bò, dê lủi rừng tìm lá ăn, no bụng, ra đứng hay nằm ở các thảm cỏ nhỏ khô
cằn, nghỉ ngơi, khát tìm đến cái hồ đào tương đối lớn trữ nước mưa.
Sự vắng
bóng các loài động vật hoang dã có lẽ là do thiếu nước ngọt.
Ở đảo, nước
giếng đào nhiễm muối, không dùng làm nước sinh hoạt được. Nhà tư cũng như nhà
công xây bể lớn hoặc trang bị nhiều citerne hứng nước mưa; khi nào hụt dùng,
nước sinh hoạt được tiếp tế từ trong đất liền ra.
Ngọn hải đăng ở đảo Cồn Cỏ
Ngọn hải
đăng dựng ở địa điểm cao nhất trên đảo, tôi đã leo lên đỉnh hải đăng bằng đường
cầu thang xoắn ốc, từ đó, nhìn rõ đảo có hình dáng tương đối tròn.
Đảo không
có bãi cát, toàn bãi đá - nhiều bãi như bãi trước Bến Nghè (phía Đông đảo) và
bãi trước mặt trụ sở huyện (phía Nam đảo), đá xếp thoải, tắm được - bãi nào
nước cũng trong veo, sóng vỗ nhẹ, mắt có thể nhìn cá bơi lội, đẹp lắm! Cái tên
Bến Nghè gợi thắc mắc nơi tôi; tôi hỏi hướng dẫn viên, anh này cũng không giải
thích thỏa đáng; anh chỉ cho biết ở đây nhà khảo cổ Trần Quốc Vượng đã khám phá
ra một ít đồ dùng của người xưa; trước đây nơi đây ngư dân thường ghé vào nghỉ
ngơi và trong những năm chiến tranh, tàu thuyền tiếp tế đảo cũng cập bến ở đây.
Tôi đoán người ta đã lập cái nghè – cái miếu – để thờ thần bảo hộ cho bến, nên
bến mang tên Bến Nghè.
Dù hưởng
không khí trong lành và môi trường sống sạch bụi bặm, yên tĩnh, ăn hải sản
tươi, người trên đảo không ai béo mập, có lẽ do làm việc nhiều. Bộ đội thì
luyện tập, canh gác; dân thì, ngoài việc làm công lãnh lương, tranh thủ thì giờ
rảnh rỗi lặn cá, câu mực, mò cua để cải thiện bữa ăn gia đình.
Ngày tôi ở
đảo, trời nắng, dù 4 bề lộng gió, vẫn thấy oi bức, khó chịu; đêm trên đảo, tôi
nằm trằn trọc, nhức mỏi, ngủ không ngon, không biết có phải vì ngồi trên tàu
rồi tắm biển sóng dồi mệt hay vì khí đá bốc lên gây ngột ngạt.
*
* *
Nhà Nước
đang muốn biến đảo thành một địa điểm du lịch. Tốt quá! Như thế, người dân mới
có dịp đi ra đây để “nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình” (1).
Tuy nhiên,
dưới mắt tôi, còn lắm việc cần làm:
- Làm sao
có điện, nước thường xuyên để phục vụ người trên đảo. Nguồn kinh phí để lo việc
này không phải nhỏ.
- Các công
trình (như nhà khách chẳng hạn) phải được xây dựng hoặc tân trang vững chắc,
bắt mắt hơn; tôi thấy các công ốc trên đảo tuổi thọ mới trên dưới 10 năm mà
móng, tường đã nứt nẻ, nền đã sụt lún.
- Phải động
viên, giáo dục và ra quy định bắt buộc mọi người có mặt trên đảo không xả rác
bừa bãi; tôi thấy bao nhựa, chai nhựa, bao thuốc … đã hiện diện hơi nhiều quanh
các khu công ốc và ở mé đường quanh đảo, đó đây đã có những bao rác.
- Trong
tương lai, hành khách nhiều, tàu từ đất liền ra đảo và ngược lại phải là loại
tàu mạnh hơn, tốc độ khá hơn, lướt sóng êm dịu hơn để việc vận chuyển ít bị
thời tiết cản trở.
- Mật độ
dân số trên đảo, theo tôi nghĩ, không nên đông (không vượt quá mật độ trung
bình cả nước 274 người/km2). Nếu dân số quá đông, môi trường đảo sẽ bị xâm hại
và với một đảo đá như Cồn Cỏ, sự phát triển sẽ không bền vững, tuột ra khỏi sự
quản lý.
Được ra
đảo, tôi có nhiều trải nghiệm thú vị, nhiều suy nghĩ bâng quơ, tôi viết ra đây
để mời các bạn đọc.
Tôi xin cảm
ơn con dâu út đã tài trợ chuyến đi, cảm ơn những bạn đồng hành – cán bộ các xã
trồng sắn ở huyện Hướng Hóa – đã quan tâm đến tuổi tác, sức khỏe của tôi: dìu
dắt lên xuống tàu, nhường ghế trên xe bán tải đưa đi chơi, gắp miếng béo ngon
giùm trong các bữa ăn … và các anh chị hướng dẫn viên tận tình phục vụ với nụ
cười luôn tươi trên môi./.
Hoàng Đằng
26/7/2016 (23/6/Bính Thân)
(1) “Mỗi ngày tôi chọn
một niềm vui” của Trịnh Công Sơn.
No comments:
Post a Comment