SỰ TINH
TẾ, NÉT HIỆN ĐẠI
QUA HAI ĐOẠN TRÍCH «TRUYỆN KIỀU»
CỦA NGUYỄN DU
Lê Đức Đồng
Đã là công chúng văn học, mỗi
chúng ta chắc hẳn đã từng đọc «Truyện Kiều» của đại thi hào
dân tộc Nguyễn Du. Càng đọc Kiều, càng thấy bao điều mới mẻ, hấp dẫn ẩn đằng
sau từng trang Kiều mà dòng chảy thời gian làm phát lộ rõ từng vỉa vàng ngữ
nghĩa...
Mỗi lứa tuổi đọc Kiều đều có
những cảm nhận khác nhau. Tuổi mười tám, tôi đọc Kiều trong rạo rực tuổi xuân;
trong tâm thế của một người chuẩn bị bước vào đời. Thuở ấy «Cỏ non xanh rợn chân trời» đã làm
xanh ngăn ngắt từng câu thơ lục bát và tâm hồn luôn phơi phới sắc xanh non.
Tuổi ngoài năm mươi, tôi đọc Kiều
trong trải nghiệm thế thái nhân tình; trong lắng sâu của chiêm nghiệm. Lật lên
từng lớp ngữ nghĩa, hai đoạn Kiều ở hai khoảng thời gian khác nhau; viết về hai
con người khác nhau nhưng cùng chung một tâm trạng. Chính sự tinh tế trong tâm
hồn và con mắt dõi theo, nhìn thấu cả mấy trăm năm của Tố Như đã bộc lộ nét
hiện đại hiếm có trong trang Kiều thế kỷ XIII !
Đó là hai đoạn thơ sau đây:
Đoạn thứ nhất tả cảnh ngụ tình khi Kiều vừa tiễn
đưa Kim Trọng trong buổi chiều Thanh minh bên dòng suối cạnh mộ Đạm Tiên (từ
câu 167 đến câu 170):
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách
đà lên ngựa, người còn ghé theo.
Dưới cầu nước
chảy trong veo
Bên
cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Đoạn
thứ hai cũng tả cảnh ngụ tình khi Thúc Sinh được Hoạn Thư “mở lời” khuyên chàng
hãy trở về thăm cha sau thời gian khá dài chàng về thăm nhà (từ câu 1601 đến
câu 1604):
Được lời như cởi tấc son
Vó
câu rong ruổi nước non quê người.
Long
lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du cho đôi trẻ Kim-
Kiều gặp nhau trong tiết Thanh minh. Mùa xuân thời điểm này đã tới độ chín, đạt
tới độ viên mãn của nó. Mùa xuân là mùa của cây cỏ đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa.
Mùa xuân khiến lòng người rạo rực, bâng khuâng bởi tiết trời đã ấm áp sau những
tháng mùa đông giá lạnh. Chẳng thế mà vạn vật đều dậy tràn sức sống, con chim
én “đưa thoi” nhộn nhịp như giục giã lòng người.
Một buổi chiều tiết trời mát mẻ; tiết Thanh minh trong
trẻo vô ngần; Thuý Kiều đã gặp Kim Trọng. Tuổi trăng tròn mới lớn, còn e lệ nên
Thuý Kiều chẳng dám nhìn thẳng mặt chàng Kim. Nàng thoáng đỏ mặt, cúi đầu e
thẹn nên chỉ thoáng thấy đôi giày Kim Trọng “Hài
văn lần bước dặm xanh”mà thôi ! Trong câu chuyện, hầu như hai người chẳng
nói với nhau một câu nào; một lời chào xã giao cũng không có. Chỉ có Vương Quan
là bạn học Kim Trọng nên “Chàng Vương quen
mặt ra chào”; còn hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân thì “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa”.
Nhưng mùa xuân là “bà mối” kỳ diệu, mát tay nên Kim -
Kiều đã thầm cảm mến nhau; ngỡ chừng duyên này do “tiền định” tự kiếp nào ! Tục
ngữ Việt Nam
cũng từng nhận định “Phải duyên phải số,
nó vồ lấy nhau” đó sao:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình
trong như đã mặt ngoài còn e.
Một buổi ban đầu thật nên thơ trong tiết Thanh minh
đầy tràn cỏ xanh và bầu trời đầy chim én lượn. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên” (Thế
Lữ) thật đúng trong hoàn cảnh lứa đôi này. Họ không nói với nhau điều gì bởi
mùa xuân đã nói tất cả. Cảm giác lâng lâng, ngọt ngào thấm dần vào từng chân tơ
kẽ tóc; khiến Thuý Kiều như mê như tỉnh :
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Rốn ngồi
chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Trời đã về chiều, ráng ngồi chút nữa e không ổn mà đột
ngột từ giã ra về thì cũng khó lắm thay! Và khi Kim Trọng lên ngựa, Thuý Kiều
vẫn kín đáo dõi theo màu áo thanh thiên ấy.
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách
đà lên ngựa, người còn ghé theo.
Dưới
cầu nước chảy trong veo
Bên
cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Vẫn dòng suối bao đời trong xanh ấy, sao chiều nay nó
trở nên “trong veo” hơn, dường như róc rách reo vui hơn? Cây liễu bên cầu
chiều nay bỗng xanh hơn, thướt tha hơn, duyên dáng hơn đến lạ! Cây cầu ván đơn
sơ, dòng suối nhỏ xinh cùng cây liễu xanh rì như mái tóc con gái bỗng trở nên
sống động, thân thiết vô cùng… Câu thơ như reo lên cùng nhịp đập trái tim cháy
bỏng yêu đương của Thuý Kiều. “Bóng chiều thướt tha” hay dáng đi thướt tha, mềm
dịu của Thuý Kiều?
Tất cả đó là tâm trạng khi tình yêu khơi dậy trong
lòng Thuý Kiều; một tình yêu trong trẻo, vô tư giữa mùa xuân huyền diệu. Tuổi
xuân ấy, mùa xuân ấy như hoà quyện vào nhau; mang đến cho Kiều một buổi ban đầu
đầy niềm vui khôn tả; không dễ gì quên được trong đời.
Bên cạnh đó, với Thúc Sinh, trước hết chúng ta có thể
khẳng định rằng: tuy chàng có vợ con đề huề nhưng chàng chưa hề có tình yêu !
Tình yêu là sự hoà hợp của hai tâm hồn; là sự rung động của đôi trái tim cùng
nhịp đập. Với Thúc Sinh, bà vợ Hoạn Thư có thể do gia đình xếp đặt bởi “cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy” hoặc do “môn đăng hộ đối” tác thành. Vì thế, Thúc Sinh
tuy có vợ nhưng chưa có tình yêu đích thực cũng là điều dễ hiểu!
Trước người đẹp Thuý Kiều, trái tim Thúc Sinh bỗng
loạn nhịp (Sinh càng một tỉnh mười mê/ Ngày
xuân lắm lúc đi về với xuân). Từ mối tình “Trước là trăng gió sau ra đá vàng”, Thúc Sinh đã có Thuý Kiều, có
người tâm đầu ý hợp cùng sẻ chia tâm sự buồn vui:
Khi gió gác, khi trăng sân
Bầu tiên
chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi hương
sớm, khi trà trưa
Bàn vây
điểm nước, đường tơ hoạ đàn.
Khi Thuý Kiều ngần ngại cho thân phận mình, e ngại cho
danh giá chàng thì Thúc Sinh “ra tay nghĩa hiệp”, cứu nàng ra khỏi lầu xanh; đưa
nàng về cùng sum họp một nhà:
Một
nhà sum họp trúc mai
Càng sâu
nghĩa bể càng dài tình sông
Hương càng đượm, vẻ càng nồng
Càng sôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.
Hơn thế, cũng vì thương Kiều, vì tình
yêu mặn nồng mà Thúc Sinh cam chịu cơn thịnh nộ của cha già. Khi biết Thúc Sinh
đón Kiều nơi lầu xanh về làm vợ, Thúc ông đã buộc Thúc Sinh trả Kiều trở lại
nơi lầu xanh. Nhưng Thúc Sinh đã kêu nài người cha tha thứ và chấp nhận.
Rằng:“Con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam
Trót
vì tay đã nhúng chàm
Dại
rồi còn biết khôn làm sao đây”.
Khi Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn
Thư, chàng bịn rịn chia tay trong tư thế của người … ra trận ! Đây là một mối
tình đẹp, lắng sâu nên Nguyễn Du giành cho buổi biệt ly những vần thơ cực hay
trong Kiều! (Người lên ngựa, kẻ chia bào/
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san/ Dặm hồng bụi cuốn chinh an/ Trông người
đã khuất mấy ngàn dâu xanh/ Người về chiếc bóng năm canh/ Kẻ đi muôn dặm một
mình xa xôi/ Vầng trăng ai xẻ làm đôi/Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường).
Sau thời gian ở nhà cùng vợ, Thúc Sinh cũng không dại
gì “tự thú trước bình minh” mà bề ngoài vẫn luôn vui vẻ (Những là cười phấn cợt son/ Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai).
Nỗi nhớ Kiều càng nhân lên gấp bội khi mùa thu đã sắp tàn (Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô). “May mắn” thay, Hoạn Thư dường
như “hiểu ý” chàng và khuyên chàng trở về thăm cha…
Mùa thu, mùa của nỗi lòng se sắt, nhớ nhung. Mùa thu,
nước xanh trong bởi phù sa đã lắng tận đáy sông sâu. Mùa thu, lòng người dường như cùng lắng lại
trong cái lạnh se se của gió heo may đã về.
Thúc Sinh hồi hương, trở về thăm cha và thăm Thuý Kiều
yêu dấu (Có người nói vui rằng: Yêu phải
giấu nên có thể gọi là “người yêu dấu”). Có mùa thu nào dẹp hơn mùa thu này
trong tâm thức Thúc Sinh ?
Cả ngàn năm qua chắc cũng chưa đẹp bằng, chưa thương
bằng mùa thu mà chàng Thúc Sinh trở về đầy tâm trạng khi Hoạn Thư “mở đường
hiếu sinh”(Cách năm mây bạc xa xa/ Lâm
Tri chàng phải liệu mà thần hôn):
Được lời như cởi tấc son
Vó
câu rong ruổi nước non quê người.
Long
lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Cả Thuý Kiều lẫn Thúc Sinh và cả mỗi
người đã yêu, đang yêu đều có chung tâm trạng như thế. Tâm trạng của người đang
yêu thật buồn vui lẫn lộn; có đợi, có chờ, có hờn có giận, có thương có nhớ…
Vạn vật xung quanh bỗng hoá tình người! Vó ngựa dường như bon bon hơn; đáy nước
sông mùa thu sao hôm nay trong lành, lung linh đến lạ. Khói biếc bay quanh, núi
phơi mình một màu vàng thắm… Tất cả như hoà chung khúc nhạc tình yêu, khúc nhạc
lòng của kẻ đang khao khát tình yêu…
Hai đoạn thơ, hai hoàn cảnh, hai con
người và hai mùa khác nhau nhưng cùng chung một ý nghĩa. Đó là TÂM TRẠNG CỦA
CON NGƯỜI ĐANG YÊU!
Với Thuý Kiều, buổi ban đầu và mối
tình đầu phải hợp với MÙA XUÂN ! Với Thúc Sinh, con người từng trải; mối tình
này phải hợp với MÙA THU ! Mùa Xuân sôi nổi, hào hứng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” ; còn mùa thu ơi, hãy lắng
lòng trong sâu thẳm dòng thời gian để mà chiêm nghiệm- mùa thu đẹp đến nao lòng
nhưng mùa thu cũng báo hiệu một sự chia ly sau đó …
LÊ ĐỨC ĐỒNG
…………………………………
Tài liệu tham khảo:
-
Danh ngôn tình yêu- NXB TP Hồ Chí Minh, 1994
-
Lý luận văn học-Lê Ngọc Trà, NXB Trẻ, 2005
-
Truyện Kiều- Nguyễn Du- NXB Văn học, 2006
…………………………………………………………….
Lê
Đức Đồng,
Trường THPT Chuyên NT Minh Khai,
Sóc Trăng.
leducdongst@gmail.com
No comments:
Post a Comment