Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, September 30, 2013

HOA HỌC TRÒ - truyện ngắn Trần Hữu Thuần - kỳ 4



Buổi sáng còn tinh mơ. Mặt trời hồng vừa ló dạng chưa làm tan đi sương đêm còn đọng lấp lánh trên lá cây ngọn cỏ trong vườn nhà tôi. Từ ngày cha tôi mất đi, mạ và anh chị tôi vẫn tiếp tục tối tối lặn lội vào rừng nấu rượu lậu như cha tôi đã làm trước khi bị bắt, bị tù và chỉ được cho về nhà để chết. Không phải không biết sẽ không thoát khỏi cảnh tù đày tan nhà nát cửa nếu bị phát hiện, mạ và gia đình tôi vẫn phải tiếp tục vì đó là nguồn lợi lớn đủ để chu cấp cho anh chị em tôi. Làm thuê làm mướn không đủ đắp đổi qua ngày cho dẫu mạ và chị tôi vẫn không từ cấy thuê gặt mướn, sàng sẩy, xay lúa, giả gạo. Nhà giàu, ruộng cò bay thẳng cánh, đi mỏi chân thăm vẫn chưa giáp vòng. Nhà nghèo, ruộng một đám hai đám bằng bàn tay, hút chưa tàn điếu thuốc đã không còn ruộng để thăm. Gia đình tôi ở An Đôn, đất ngụ cư, nên còn nghèo hơn người nghèo vì ngoài miếng vườn ở nhờ chẳng có lấy một miếng ruộng trồng một cây làm thuốc. Ngay tại quê cũ Phúc Lộc, ruộng vườn của gia đình tôi cũng chỉ mấy đám. An Đôn thời đó, bà Lư có thể là người giàu có nhất vùng. Ngoài việc có rất nhiều ruộng, bà còn nuôi cả đàn trâu bò. An Đôn là vùng rừng núi, nuôi trâu bò hàng đàn chỉ phải trả công cho vài thanh niên “cao bồi” dẫn lên rừng thả rông để chúng tự nuôi sống với đồng cỏ hoang hoặc lá cây rừng bát ngát. Con trai bà học cùng lớp với tôi, có nghĩa bà chưa phải là người già lắm. Ngoài Nguyệt ra, con trai là đứa bạn trai thân thiết với tôi hơn các đứa khác. Mặc dù mạ tôi là người làm thuê làm mướn cho bà, không vì thế mà bà Lư coi thường tôi, trái lại còn thương tôi, coi tôi như con bà. Mạ tôi dặn ngày nào mạ về trễ vì bận công việc, tôi đi học về nếu đói có thể ghé nhà bà Lư ăn cơm với bạn tôi, con trai bà. Tôi lúc nhỏ rất “xấu máu đói,” chưa kịp ăn là tháo hồ hôi mệt mỏi. Thế nhưng, đói sao thì đói, tôi chưa một lần ăn cơm nhà bà Lư, có lẽ vì tự ái không muốn là người “ăn cơm chực.”

Đến mùa gặt lúa ngoài đồng gánh về, nhà giàu mướn người trải lúa ra nền đất nện rộng cho trâu bò đạp để tách hạt ra khỏi rơm rạ. Vùng quê khác đạp lúa chỉ với một hoặc hai con trâu nhưng nhà giàu ở An Đôn như nhà bà Lư dùng bốn năm trâu, ngoài ra còn bốn năm con khác nằm ngoài “trừ bị.” Chính giữa nền đất nện, người ta dựng một cái trụ cao quá thân con trâu con bò, từ trụ vươn ra một “giàng” dài suốt bán kính nền đất trông như cây kim đồng hồ lớn, một đầu giàng cột cách nào đó để xoay chuyển được quanh trụ. Người ta khớp ách trên vai trâu bò vào giàng, dài ngắn theo nhu cầu để trâu bò đi từ ngoài vào trong hoặc từ trong ra ngoài thế nào để đạp đi đạp lại lúc nhiều lần trên cùng một vòng không bỏ sót lúa. Khi thấy hạt lúa đã được đạp rời khỏi rơm rạ, người ta cho trâu dừng lại để quét thóc thu rơm rồi trải ra lớp lúa nguyên hạt khác. Rơm đã đạp xong còn được đập lại vớt vát một lần chót trước khi chất thành đống để xây thành đụn rơm sau này. Lúa thóc là họt ngọc trời cho, không thể nào để vương để vãi. Kĩ lưỡng như thế nhưng đàn gà lần quẩn quanh đó vẫn còn kiếm được lúa sót ăn no bụng. Và cũng vì quan niệm hột lúa củ khoai củ sắn là ân huệ trời cho, chủ ruộng chủ nương lúc nào cũng dặn thợ gặt thợ đào khoai đào sắn chừa lại một số nhánh lúa cây khoai cây sắn cho người nghèo mót lúa mót khoai. Có thể đây cách chia sẻ phúc lợi độc đáo của dân tộc Việt Nam mà không biết có nơi nào khác trên thế giới làm như vậy hay không.

Hạt lúa đã gom vào thúng được người làm đổ vào “ họng xe quạt” để quạt rác rến bay đi, còn lại lúa chắc “chảy” vào thúng. Gọi là “xe quạt” vì là “dụng cụ văn minh” đặt trên hai bánh xe để có thể di chuyển, gồm hai bờ ván ghép lại cách nhau chừng sáu bảy tấc bề dày, phần thân rỗng bên trong là một cái quạt bốn hoặc sáu cánh bằng gỗ có trục quay tay. Khi quay chạy tròn, quạt thổi ra hơi gió đánh văng hạt lép và rơm rác về phía trước khỏi lúa chắc. Chỉ nhà nhiều ruộng mới có sân đất nện cho trâu bò đạp lúa, và quạt rác bằng xe quạt. Nhà ít ruộng mướn người cầm từng bó lúa đập mạnh lên một khúc cây nằm ngang cho hạt rơi ra. Muốn thổi hạt lép và rơm rác, một người đứng trên cao đổ lúa xuống để một hoặc hai người khác đứng dưới đất cầm một vật làm quạt quạt bay đi. Với Nguyệt và tôi, nhửng lúc người lớn làm việc nặng nhọc lại là những đêm ngày giải trí của chúng tôi. Chúng tôi được thức khuya phụ giúp các việc vụn vặt và còn được chia phần “bữa lỡ” cái bánh củ khoai với người lớn. Một trong các công việc vụn vặt đó là “hứng,” tức hứng nước tiểu hoặc phân trâu bò cho khỏi làm bậy lên lúa. Người ta để sẵn mấy cái. Khi nhận ra có trâu bó nào sắp làm bậy, người dắt trâu hét lớn “hứng c..” hoặc “ hưng đ…” Tiếng hét chưa dứt, lũ trẻ “được quyền” như tôi và Nguyệt vội đưa gàu ra hứng, loại gàu có cán kiểu gàu sòng tát nước lên ruộng. Chúng tôi chẳng những không mắc cỡ khi làm chuyện đó mà còn cười thích thú vì đã làm được “chuyện người lớn.” Trăm lần như một, Nguyệt lúc nào cũng phản ứng mau chân lẹ tay hơn tôi khi nghe lệnh “hứng.”

Mặt trời đã lên cao nhưng tôi đang cố ngủ  nướng thêm chút nữa. Trong buổi đạp lúa tối qua tại nhà bà Lư, Nguyệt và tôi đã thức rất khuya “làm chuyện người lớn,” lại đang kì nghỉ hè nên cả đều không phải dậy sớm đi học. Học sinh thời trước không vất vả như học sinh hiện thời tại quê nhà. Mùa học chẳng phải học thêm, đứa nào dốt quá thậm chí có khi còn được thầy cô kèm thêm ngoài giờ chẳng đòi cha mẹ một đồng cũng chẳng cần được cha mẹ nhớ ơn. Dạy cho học sinh thông suốt chương trình học là bổn phận mà chức năng nhà giáo phải làm tròn. Vì thế chẳng lạ gì người ta tôn trọng thầy cô giáo, không chỉ vì quan niệm quân, sư, phụ của Nho giáo mà cả đến sau này khi Nho giáo không còn địa vị thống trị nữa. Chẳng ai không biết câu ca dao Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Người ta thường xuyên đưa câu ca dao đó ra để răn dạy con cái và để làm khuôn vàng thước ngọc cho phụ huynh biết phải đối xử với thầy cô như thế nào. Lũ trẻ kém giáo dục thường bị người khác trước hết mắng mỏ cha mẹ và rồi thầy cô sau đó:
“Thằng mất dạy, bộ cha mẹ thầy cô mi không biết dạy mi răng?”

Hết mùa học, mùa hè là mùa học sinh nghỉ chơi thong thả, chẳng mấy đứa phải học hè học thêm gì. Vì thế, khi tiếng ve bắt đầu râm ran trong rừng ngoài vườn, khi những cánh phượng đỏ bắt đầu nở trên sân trường, học trò như tôi và Nguyệt đều háo hức mong đợi mùa hè. Thức khuya học bài, mài mẩn với các bài thi lục cá nguyệt cuối năm sẽ bay đi mất khi tiếng trống điểm giờ học cuối cùng của năm học đã trôi qua. Lũ trẻ chúng tôi như bầy chim bị nhốt vừa chạy ào ra sân chào cờ lần cuối rồi la hét đuổi nhau xô nhau chen lấn nhau ra khỏi sân trường lẫn vào trong các con hẽm ai về nhà nấy đợi cho đến mùa học sau.

Trong giấc ngủ lơ mơ, tôi nghe tiếp dép lẹp xẹp quen thuộc rồi tiếng Nguyệt lay tôi dậy:

“Dậy đi anh, ra ‘nhà mình’ chơi.”

Đúng hơn, chúng tôi nói là “già mình” thay vì “nhà mình” vì người Bình Trị Thiên chúng tôi thời đó không phát được âm “nhờ NH” mà phát âm thành “giờ GI,” “cái nhà” thành “cái già,” “cá nhân” thành “cá giân.” Người nơi khác thường chòng ghẹo giọng và cách nói Bình Trị Thiên bằng câu “hai cấy giôông đập chắc côi cươi,” dịch nghĩa ra thành “hai vợ chồng đánh nhau ngoài sân.” Cái mà Nguyệt và tôi gọi “nhà mình” là một cái chòi dựng trên khoảnh đất cát ở bìa rừng bên ngoài khu vườn nhà tôi, khuất sau hàng cây chồi nhấp nhô, nép mình dưới một lùm cây rậm rạp tỏa bóng mát trên đầu. Mặt cửa nhà bỏ trống nhìn ra rừng già, ba vách chung quanh khép kín, sàn bằng cành và thàn cây lớn bằng bắp tay người lớn ghép lại, đủ vững chắc để nằm ngồi trên đó. Chỉ có thế nhưng hai đứa chúng tôi đã cặm cụi hì hà hì hục mấy tuần lễ mới dựng lên được đúng theo ý muốn. Đó là giang sơn riêng của hai chúng tôi, cách xa người lớn để tha hồ phá phách mà không sợ bị la rầy.

Chen lẫn hàng hàng lớp lớp cây chồi ở bìa rừng là một loại cây đến mùa cho ra một loại hoa năm cánh màu vàng trông như vỏ trái thị chẻ ra kéo thẳng. Loại hoa này hầu như khắp thôn quê Quảng Trị đều có và được gọi với nhiều tên gọi khác nhau tùy địa phương, hoa Dẻ, hoa Dủ Dẻ, hoa Mù Tru, hoa Mù Tru Trập, hoa Trập, hoa Thi, hoa Tày. Tôi và Nguyệt thì gọi nó là “Hoa Học trò” vì không học sinh nào, nhất là học sinh gái, không bị loài hoa đó quyến rũ đến độ hễ đi ngang qua là phải tạt vào ngắt một nắm kẹp vào trong vở. Mùa hè là mùa hoa nở, không khí bìa rừng trong nắng sớm phảng phất hương thơm như đang được ướp nước hoa, một loại nước hoa dìu dịu ngòn ngọt đậm đà như mùi bánh in. Vừa đến “nhà,” Nguyệt hít một hơi dài rồi chạy vụt vào rừng. Tôi gọi với theo:

“Đi mô rứa? Đừng đi xa đó nghe.”

Tôi dặn cho có chừng vì biết Nguyệt không bao giờ  đi sâu vào rừng mà không có tôi. Biến mất sau bìa rừng, Nguyệt trả lời vọng lại:

“Em đi hái hoa cho thơm nhà.”

Tôi  mở hộp dế, món quà kỉ niệm duy nhất cha tôi để lại cho tôi, chẳng mấy chốc đã mê mẩn với phong độ hùng dũng và tiếng gáy dòn tan của mấy chú dế cưng của tôi. Bỗng, một tiếng thét thất thanh vọng lại từ phía sau các lùm cây. Chẳng chút chần chờ, tôi quăng hộp dế sang một bên, phóng mình vào rừng theo hướng tiếng thét, tim đập mạnh vì nghĩ Nguyệt đang gặp nguy hiểm. Lúc này, với tôi, an nguy của Nguyệt quan trọng hơn bất cứ điều gì khác trên cõi đời này, quan trọng hơn ngay cả chính bản thân tôi. Tôi đột nhiên nhận ra giữa Nguyệt và tôi có một dây ràng buộc vượt quá tình bạn, quá tình anh em, dây ràng buộc mà trong lúc thảng thốt mơ hồ của tuổi con nít, tôi không thể nhận ra đó là gì. Vừa bỏ một chân xuống đất chưa kịp đứng lên, tôi đã bị Nguyệt không biết từ đâu bên ngoài lao vào như một cơn gió lốc ôm chặt lấy cổ tôi, đẩy tôi ngồi lại xuống sạp, rồi nhảy phóc lên ngồi trên hai đùi tôi. Nguyệt co hai chân lên kẹp chặt hai bên hông tôi, đầu gục lên vai tôi, ngực chạm vào ngực tôi, miệng thở hào hển nói không thành lời:

“Sợ  … quá anh ơi.”

Nhột nhạt vì mấy sợi tóc Nguyệt vương lên má lên cổ và vì hơi thở của Nguyệt đang phả lên mặt tôi, tôi khẽ cựa mình và bỗng cảm thấy một tình cảm mơ hồ tôi len lén đến trong tôi, một tình cảm lạ lùng trước đây tôi chưa từng cảm thấy đối với Nguyệt. Cho dẫu hai chúng tôi lúc nào cũng như bóng với hình, tôi chưa một lần cảm nghiệm sự gần gủi giữa thân thể Nguyệt và thân thể tôi như lúc này. Không đứa nào nói với đứa nào một lời, hai chúng tôi im lặng ôm chặt nhau như thể chẳng đứa nào muốn rời ra trước. Cảm giác lạ lùng đó càng lúc càng hiện rõ trong tôi. Tôi đột nhiên choáng váng khi nhìn thấy đôi má Nguyệt bỗng hồng lên như đang nhuộm ánh mặt trời le lói chiếu qua vòm cây trên đầu chúng tôi. Nguyệt cũng đang có cảm giávc giồng cảm giác của tôi chăn? Bừng tỉnh lại, tôi đẩy Nguyệt xa ra một chút và cịu dàng hỏi Nguyệt:

“Có gì mà em sợ đến thế?”

Nguyệt không lùi ra mà hình như đang muốn siết tôi chặt hơn, trả lời thật vội:

“Con cáo.”

Tôi lo lắng hỏi:

“Nó cắn em?”

Nguyệt ngẩng đầu lên rồi dựa đầu lại lên vai tôi, nói:

“Không. Nó trong bụi cây giương đôi mắt sáng quắc nhìn em làm em sợ hết hồn.”

Tôi làm tài khôn bảo Nguyệt:

“Nó rình em đó, may mà chưa cắn em. Chắc hang nó ở đó.”

Nguyệt lắc đầu:

“Không có mô. Em hái hoa Học Trò chỗ nớ hoài, có chi mô.”

Tôi làm tày khôn:

“Chồn cáo giữ con còn hung hơn nữa.”

“Răng rứa?”

“Tại sợ người ta bắt con của nó.”

“Răng anh biết? Bộ anh chộ rồi?”

“Răng mà chộ được. Người lớn nói rứa. Họ nói đàn bà có con cũng hung dữ như rứa.”

Nguyệt phì cười:

“Chắc ngưòi ta phịa ra như rứa, em mô chộ mạ em mạ anh hung dữ khi có con mô?”

“Tại lúc nớ mình mới sinhra, mần răng biết mạ dữ hay không?”

“Nhưng mấy chị em quen có con cũng mô dữ chi mô?”

Tôi nói xá óa:

“Anh không biết, người ta nói rứa anh nói lại rứa. Cái ni chắc hơn, chồn cáo có lúc hóa thành tinh hớp hồn người ta.”

Nghe nói chồn cáo thành tinh, Nguyệt xem chừng sợ hãi thực sự, dồn dập hỏi tôi:

“Thiệt rứa răng anh?”

“Thiệt chơ. Người lớn nói chồn cáo thành tinh thường trở nên con gái đẹp dụ dỗ học trò và đám con trai lấy chúng làm vợ để chúng hút hồn đến chết.”

“Rứa em con gái, chúng có hút hồn em không?”

Không biết nghĩa sao, tôi buột miệng trả lời:

“Hút như thường tại ghét em đẹp hơn chúng nó.”

Nghe vậy, Nguyệt sợ hãi ôm chặt lấy tôi, mắt lấm lét nhìn ra bìa rừng như để thăm chừng có con cáo thành tinh nào đang chạy đến. Trong tôi, cảm giác kì lạ ban đầu lại ùa đến. Lát sau, Nguyệt buông tôi ra, la lớn:

“Chết rồi anh.”

Tôi  hốt hoảng hỏi lại:

“Cái gì chết?”

“Dế. Mấy con dế chạy hết rồi.”

Tôi cười bảo Nguyệt:

“Rứa mà em làm anh tưởng tinh ma hiện ra.”


(Còn tiếp)

Trần Hữu Thuần

READ MORE - HOA HỌC TRÒ - truyện ngắn Trần Hữu Thuần - kỳ 4

VỀ TRIỆU PHONG - thơ Nguyễn Khắc Cảm


Làng Phương Sơn, xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị



Về Triệu Phong, đêm nằm nghe tiếng biển,
Bóng trăng tàn, thao thức nhớ Huyền Trân.
Nợ Ô, Rý ngàn năm ai trả được,
Dẫu người đi mở nước đã bao lần!


Trời Ái Tử nhuốm màu xưa cố quận,
Dáng Tháp Chàm trầm mặc, lối rêu xanh.
Thương mảnh đất đã ngàn năm lận đận,
Gió Lào khô - hoang hoải mộng Chiêm thành.


Về Triệu Phong, dừng dưới chân Thành cổ,
Nén hương trầm, khuây khỏa nợ đao binh.
Dòng Thạch Hãn  hiền hòa xuôi mấy độ,
Mãi nồng nàn chân sóng những anh linh!


Màu hoa lửa chập chờn đưa giấc ngủ,
Đắng nỗi lòng miền ký ức long đong.
Hoài niệm cũ, đời bao dung ấp ủ,
Nên cỏ xanh mà mượt đến nao lòng…


Về Triệu Phong, về miền quê hoa lãng
Ấm lòng người xa xứ, Quảng Trị ơi.
Dặm đường qua chút tình xưa lãng đãng,
Ánh trăng quê hao khuyết vẫn bên đời!


Quảng Trị, mùa Vu lan 2013.


 Nguyễn Khắc Cảm
                     camkhac@drc.com.vn
READ MORE - VỀ TRIỆU PHONG - thơ Nguyễn Khắc Cảm

VIẾT TRƯỚC GIỜ BÃO BƯỚM - Võ Văn Hoa




Đêm nay trực cơ quan
Dõi theo cơn bão Bướm*
Tâm bão chắc sẽ tràn
Em đóng vai mặc ướm !

Bão số 10 chim trời
Làm sao anh đuổi bắt
WUTIP, WUTIP ơi!
Anh làm con săn sắt !

Hạ nhiệt bão Bướm nhé !
Miền Trung đang lo nhiều ...

    Viết lúc 21h ngày 29/9/2013
        VÕ VĂN HOA

** Bão số 10- WUTIP (tên do người Macao đặt, = con bươm bướm)


READ MORE - VIẾT TRƯỚC GIỜ BÃO BƯỚM - Võ Văn Hoa

LÍNH GIÁC - thơ Võ Văn Luyến

Tranh Họa sĩ Lê Ngọc Duy




Cứ như em không nghĩ điều gì
Giấc ngủ giới hạn đêm
Một anh thức giấc
Cùng con chó sủa trăng
Con thằn lằn chắt lưỡi
Và bước chân lạo xạo của những kẻ cô đơn

Nỗi sợ mòn yêu tin
Khi không tự rung chuông
Cầu cho em có được linh giác Esmeranda
Nhưng tiếng chuông rơi vào im lặng
Còn nỗi buồn nào buồn hơn
Khi anh tự chứng luật công bằng.


VÕ VĂN LUYẾN
READ MORE - LÍNH GIÁC - thơ Võ Văn Luyến

PHAN THIẾT, TÌNH & SẦU BỎ LẠI - thơ Huy Uyên



Ngày nào đó đưa em về mũi Né
bãi cát trắng dài
hàng phi lao xanh
tình hai đứa bao mùa dâu bể
qua đi rồi những lúc nước mắt vây quanh.

Biển lặng, đêm thắp sáng Kê-gà
sóng xô sắc xanh màu ngọc
trăng dát vàng để em chao mái tóc
lửa bên đồi bập bùng dấu lệ
bụi đường sương pha.

Núi, rừng và cát hoang vu
vườn-Đá, đồi-Sứ vàng chiều sóng dạt
quanh tiểu-vạn-lý-trường-thành nghe ai hát
đêm thu
Thuận-quý bao la mây trời nhuộm sắc.

Dãi dầu khói sương Thuận-nam,Trà-cú
hoang hoải đêm Bằng-lăng, Linh-sơn
dinh thầy-Thím nhớ ai mà không ngủ
cho La-gi buồn thêm xao xuyến hơn.

Thu phai gởi tình về Phan-thiết
trên đồi nắng trải bước người đi
quá khứ một thời Po-sha-nư cổ tích
lung linh bàu-Trắng
anh nói với em điều gì.

Mưa nắng nghiêng sông, bến Cà-ty
tình cũ trao em bên cầu Po-thít
lối cũ Đức-long đứng đợi ai về
để Lạc-đạo buồn ngóng trông
người cũng chưa quay về kịp.

Em gởi lòng theo trái tim đau
sao đi
mà bỏ lại mối tình sầu
Phan-thiết !!!

Huy Uyên
READ MORE - PHAN THIẾT, TÌNH & SẦU BỎ LẠI - thơ Huy Uyên

CON CHẠY VỀ THĂM MẸ CHIỀU NAY - thơ Phan Minh Châu






Con chạy về thăm mẹ chiều nay
Bão đang đến bão bắt đầu đổ bộ
Những trang báo, đài đưa tin còn rộ….
Cơn bão số 10 đau thắt cả lòng con
Quê hương mình đất Quảng Trị xa xôi
Đất đã khó đời người thêm khốn khổ
Khi bão quét điên cuồng trên mắt mẹ
Con thấy mình hụt hẫng đến chơi vơi…
Chống bão bao năm chống bão cả đời
Một dân tộc bốn nghìn năm chống bão
Bão giật cấp 10 bão tràn lên biển đảo
Bão giật cấp 10 thổi nát quê hương
Con giật mình theo một giấc mơ hoang
Những cơn sốt ngày đêm đang chảy xiết
Những sân ga không một người đưa tiễn
Những ngôi trường năm tháng chịu mồ côi
Con đang về thăm mẹ đó mẹ ơi
Thăm làng xóm nhiều nơi tan tác mái
Thăm khuôn mặt còn bàng hoàng ngây dại
Thăm cánh đồng bật rễ đến đau thương
Cũng màu da, màu đất, cũng quê hương
Cũng giọng nói chung ba miền Nam, Bắc
Cũng sắc áo Huế, Sài gòn, Hà Nội
Sao miền Trung bão lũ đến điên cuồng
Con men theo hầm hố những con đường
Những mắt xích cả đời không gỡ nổi
Tìm lại mẹ những tháng ngày lầm lũi
Trên cánh đồng trăn trở bốn nghìn năm.
Con đang về trong cái rét căm căm
Gió đang giật và bão cuồng đang nổi
Nếu mất mẹ đời này con có lỗi
Với mảnh làng năm tháng đã cưu mang.


Phan Minh Châu
READ MORE - CON CHẠY VỀ THĂM MẸ CHIỀU NAY - thơ Phan Minh Châu

Sunday, September 29, 2013

NỖI BUỒN - thơ Trương Nguyễn



Đêm!
Không chỉ mình ta thao thức
Hằng triệu người hành khất đấy thôi
Lắp ghép những mảnh đời cơ cực
Xấu đẹp – sang hèn – trên dưới buồn vui

Những con tim chai cứng rồi
Máu thành sắt thép
Ngôn từ nham thạch
Chạm nhau bến bãi phù sa

Bó nhang của bác linh già
Nguyện cầu không rõ…?
Mượt xanh bãi cỏ
Linh hồn bặt tiếng từ lâu

Trang sách nát nhàu
Bỗng hóa kim cương
Nghe đâu đó nỗi buồn
Sâu thẳm.

Trương Nguyễn
READ MORE - NỖI BUỒN - thơ Trương Nguyễn

MỘT CHÚT HƯƠNG QUÊ - thơ Hoàng Đình Chiến



Bình bát chát chua mùa nước nổi
Ngọt canh rau đắng rô đồng
Lỗi hẹn em đi lấy chồng
Để quên giàn trầu vàng lá.



Nhọc nhằn con cá lóc bông
Mưa phập phồng dòng kinh xáng
Chiếc thuyền giăng câu loạng choạng
Con trai đểnh đoảng dềnh đoàng.


Mái lá tuềnh toàng gió lộng
Bềnh bồng mùi cá nướng trui
Ly đế giót tràn uống cạn
Tiếng “khà” vang cả bến sông


Câu ca gió nội hương đồng
Đàn kìm lồng câu vọng cổ
Hương quê lặn vào nỗi nhớ
Xứ xa mắc nợ quê nghèo.


SG- Một chiều nhớ quê 2003
Hoàng Đình Chién
READ MORE - MỘT CHÚT HƯƠNG QUÊ - thơ Hoàng Đình Chiến

QUÊ HƯƠNG MỚI - thơ Huy Uyên




Khi gặp nhau tôi thấy mắt anh cười
Bên ngôi nhà còn thơm mùi gỗ mới
Hạnh-phúc ơi một đời thay đổi
Ấm lòng ai rời bỏ xứ ra đi.

(Quê nhà xưa áo vá với nón cời
và ruộng đồng, bầy trâu đói ốm )
Nhớ ngày nào anh đến
Hai tay không sự nghiệp cơ-đồ.

Trên hai vai hằn nặng âu lo
Cơm áo, cháo rau ngày hai buổi.
Anh già sớm theo từng ngày
Còng lưng trên chiếc xe đạp thồ tới tối.

Mồ hôi đầm đìa nước mắt chan cơm.
Tưởng quá khứ về quanh mùi rạ còn thơm
Và giấc mơ đời
Đến cùng anh quá thật
Ba mươi năm qua với tấm lòng bát-ngát
Đời tặng anh một đóa hoa hồng
Đã qua rồi những ngày tháng long đong
Sắc thắm đỏ với nụ cười rạng rỡ.

Chiều nay bên ngôi nhà mái đỏ
Tim tôi vui hòa nhịp tim anh
Cám ơn đời qua một thuở xoay quanh
Từ mái tranh
Qua rẫy rừng
Bạc lòng cháy lá.

Đến bây giờ là tất cả
Mãnh vườn xanh cây trái mượt mà
Những luống cà trong vườn chiều trổ hoa
Thương ai mà giọng hò mời gọi.

Bên mâm cơm nhà nóng hổi
Anh khề khà nhấp chén rượu mừng vui
Ánh trăng nghiêng qua cửa cũng bồi hồi
Ghé xuống đám cây vườn thầm thì nói.

Về một con người
Và một ngôi nhà mới
Ở phương xa thấm đượm chút tình
Cháy đỏ trong lòng
Thắm một niềm tin.

Huy Uyên


READ MORE - QUÊ HƯƠNG MỚI - thơ Huy Uyên

CHỌN NHAU - thơ Đào Phan Toàn




Không thể chọn
được thời mình sống
Nhưng thành tro
vẫn có ích cho đời
Trong bóng tối
là Sao thì phải sáng
Nếu nhiều lời
khôn hóa dại em ơi...

Gần hết một đời
loay hoay với cái Tôi
Khuyết một nửa
có thể thành hoang dại
Tương khắc, tương sinh
ngũ hành cuộn chảy
Không chọn thời
nhưng mình đã chọn nhau!

Đào Phan Toàn

MaiMai1960 gởi đăng

READ MORE - CHỌN NHAU - thơ Đào Phan Toàn

Thông báo của BBT báo Nguoixunghekiev.vn về cuộc thi "Xứ Nghệ quê mình"


              

Nhân kỷ niệm 2 năm ngày thành lập 21/10/2011 – 21/10/2013, Báo điện tử nguoixunghekiev.vnTiếng nói của Hội đồng hương Nghệ Tĩnh thành phố Kiev-Ukraina tổ chức cuộc thi vết với chủ đề “Xứ Nghệ quê mình”.

Đối tượng dự thi:
Tất cả công dân Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài và trong nước  đều có thể tham dự cuộc thi.
Những thành viên trong Ban Giám khảo không được tham dự cuộc thi

Đề tài:
Cuộc thi tập trung vào các chủ đề quê hương xứ Nghệ, ca ngợi những phẩm chất và truyền thống tốt đẹp như lòng yêu nước, yêu lao động, tinh thần hiếu học, ý chí và nghị lực và nghĩa khí của người Xứ Nghệ.
Đặc biệt cuộc thi hướng vào đề tài viết về người Xứ Nghệ xa quê, phản ánh cuộc sống nhiều mặt và sự vươn lên của của họ để ổn định cuộc sống, hướng về quê hương, đất nước.

Thể loại:
- Văn xuôi: Ký sự, Tuỳ bút, Truyện ngắn
- Thơ, Trường ca
-  Âm nhạc
-  Tranh và  Ảnh nghệ thuật

 Quy cách tác phẩm:
 - Bài dự thi là tác phẩm chưa đăng báo, xuất bản hay phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tác phẩm dự thi được đánh máy vi tính rõ ràng, dạng chữ Times New Roman, cỡ chữ 14, gửi qua email.
- Tác phẩm văn xuôi và trường ca dự thi không dài quá 1800 từ.
- Mỗi tác giả có thể tham gia dự thi nhiều thể loại, số lượng không hạn chế
- Trên mỗi tác phẩm ghi rõ bút danh, tên thật, địa chỉ, số điện thoại, e-mail… để Ban tổ chức tiện liên hệ.
- Các tác phẩm sẽ được đăng tải trên báo điện tử  nguoixunghekiev.vn chuyên mục: Bài dự thi " Xứ Nghệ quê mình"

Giải thưởng: (VND)
 - Một giải Đặc biệt trị giá 10 triệu đồng 
-1 giải Nhất trị giá: 5 triệu đồng
-2 giải Nhì: mỗi giải trị giá 3 triệu đồng
-3 giải Ba: mỗi giải trị giá  2 triệu đồng
-5 giải Khuyến Khích: mỗi giải trị giá 1 triệu đồng

Thời gian nhận tác phẩm:
Cuộc thi sẽ bắt đầu nhận bài từ  ngày 21-10-2013 đến hết ngày 21-10-2014.

Công bố kết quả và trao tặng giải thưởng vào dịp Tết dương lịch 2015 tại Thủ Đô Kiev - Ucraina. Những Tác giả đoạt giải do điều kiện ở xa như ở trong nước hoặc nước khác không đến dự được chúng tôi sẽ gửi băng video và giải thưởng tới địa chỉ cụ thể.

Địa chỉ nhận tác phẩm dự thi: quynhdoi@mail.ru

Thành phần Ban Giám khảo:
Gồm các nhà văn, nhà thơ và nhạc sĩ có uy tín trong Hội Nhà Văn Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga. Danh sách sẽ công bố sau.


BBT nguoixunghekiev.vn xin trân trọng thông báo!


Ngọc Châu gởi đăng
READ MORE - Thông báo của BBT báo Nguoixunghekiev.vn về cuộc thi "Xứ Nghệ quê mình"

BUỔI SÁNG MỘT MÌNH - thơ Phan Minh Châu



Sáng nay gặp lại em
Nơi thành phố ngày xưa ta đã sống …
Đêm nhìn biển ầm ào
Để sớm mai thức giấc
Nghe lao xao tiếng chim sẻ gọi ngày
Ta yên bình khoát nỗi nhớ lên vai
Bốn mươi năm trôi qua
Trãi bao điều hụt hẫng
Ta tìm em trên những chặng đường xa
Khi về lại quê nhà 
Tiền cơm áo dài ra
Ta quên bẳng đi thời tuổi trẻ
Lo bon chen trong suốt quãng đời buồn….
Để nơi này thành một sáng mưa tuôn
Một ga lạnh không môt người đưa tiễn.
Trở lại đây….
Nha Trang thành phố biển
Nơi tình yêu một thuở diệu kỳ
Nơi tưởng chừng không có cuộc chia ly
Nơi thành phố hanh hao màu Phượng đỏ
Chỉ mùa xuân cánh kiến trộn hoa vàng
Một buổi sáng lang thang
Bất chợt  gặp nhau
Tôi mời em ly Cà Phê ấm
Để khói thuốc tãn ra thành những vòng tròn
Bay vật vờ nơi bong tối đời em
Em lại nhìn vào đêm
Chúng ta không nói gì
Im lặng……
Chỗ chúng ta ngồi có điều gì bất trắc
Sau bốn mươi năm dài hụt hẫng tìm nhau.


            PHAN MINH CHÂU
READ MORE - BUỔI SÁNG MỘT MÌNH - thơ Phan Minh Châu