[Tài liệu nầy do thầy giáo Đoàn Luyến (quê Quảng Trị, dạy môn sử học tại Bình Thuận) sưu tầm và gởi đăng.]
Nguồn: An Việt Toàn Cầu - www.anviettoancau.net
An Phong Nguyễn Văn Diễn
|
|||
BÍ MẬT NGUỒN GỐC DÂN
BA TỈNH QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ, THỪA THIÊN
|
|||
LTS. Chương II mục 9 tác phẩm Khảo luận
Văn Chính Sử mang tên "Ðường Ta
Ði" của nhà văn
An Phong Nguyễn Văn Diễn, gốc Chợ Sãi Quảng Trị. Trong mục này ông có bàn tới
một vấn đề quan trọng liên quan tới nguồn gốc dân Quảng Trị và ông đặt tên là "Nghi vấn lịch sử:Lâm Ấp có phải là Chàm
không, Nước Việt Thường ở đâu?". Ðây là một tài liệu hấp dẫn và quí giá cho những ai
quan tâm đến lịch sử đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và nguồn gốc những
người dân sống ở đó.
Chúng tôi mạnh dạn đưa tài liệu này
lên trước dư luận nhất là đối với các Học giả, Sử gia để cùng soát xét lại
"Nghi vấn lịch sử" mà ông cho rằng các sử gia Việt Nam xưa và nay
đã lầm lẫn.
Mặt khác, nguồn gốc quốc gia Việt
Thường của người Lâm Ấp cũng nằm trong chủ trương bôi xóa dấu ấn Bách Việt
nhằm mục đích đồng hóa "Man di" và chia rẽ hai dân tộc Việt Lạc và
Việt Thường.
Tuy nhiên, người Trung Hoa khi chép
sử các nước Việt phương Nam đã vô tình để lộ ra nhiều sơ hở khiến chúng ta có
thể suy ra những sự thực khi tìm về nguồn gốc của người Lâm Ấp. Sau đây là
những sự kiện rất lý thú và quan trọng mà chúng tôi xin đề nghị các sử gia
Việt Nam ngày nay xét lại.
Sử gia Phạm Cao Dương trong sách Lịch
Sử Dân Tộc Việt Nam, từ trang 114 đến trang 122 đã dẫn rất nhiều sách sử
Trung Hoa để trình bày tiểu mục "Người
Lâm Ấp quấy phá Giao châu"chúng tôi xin trưng dẫn những đoạn
như sau (Những đoạn có danh mục A,
B, C. chữ nghiênglà
phần trích dẫn):
A. "Lâm Ấp: Quốc giới của Việt Thường thời xưa, đời Tần là huyện Lâm
Ấp thuộc Tượng Quận . tr.117.
Câu B và C dưới đây do chúng tôi ngắt
ra khỏi câu A:
C. "Trung
tâm của nước này
theo các nhà khảo cứu
hiện đại là các vùng kế cận thành phố Huế ngày nay" tr.116,
Huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận ở bên Tầu thời Nhà Tần và huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam ở
vùng Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên thời lệ thuộc nhà Hán là hai địa bàn
khác nhau, cách nhau nhiều ngàn cây số; còn thời gian của hai giai đoạn này
cách nhau chừng 260 năm. (Kể từ năm 221 tr.CN, Tần Thủy Hoàng sai Ðồ Thư đem
nửa triệu quân xâm lăng các nước Việt phương Nam đến năm 43 sau CN, Mã Viện
thôn tính nước ta vào thời Hai Bà Trưng).
Sử gia Phạm Cao Dương và
nhiều sử gia khác nghĩ rằng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là quốc giới của
nước Việt Thường, có nghĩa nước Việt
Nam xưa có tên là Việt Thường. Cách suy nghĩ này không
đúng vì lẫn lộn hai địa danh cùng mang tên Lâm Ấp và Việt Thường vừa ở bên
Tầu vừa ở bên ta, do vậy gây nhiều sai lầm khác rất quan trọng, chúng tôi sẽ
bàn tới ở tiểu mục nước Việt Thường ở đâu?
D. Trong "Bulletin des Amis du Vieux Huế" (Ðô Thành Hoài Cổ),
Học giả Ðào Duy Anh viết bài "Les colonnes de bronze du Mã Viện"xác
định rằng trụ đồng
Mã Viện ở núi Ðồng Trụ cũng gọi là núi Lam Thành thuộc tỉnh Nghệ An. Ông nói rằng sách Ngô Lục và sách Tùy Thư đều
chép như thế,
Ðất Bình, Trị, Thiên cổ tên là gì thì
không ai biết vì là đất hoang "khỉ ho cò gáy, cho ăn đá gà ăn
muối." Tuy nhiên, tìm hiểu việc làm của Mã Viện trong cuộc xâm lược đất
Lĩnh Nam thì chúng tôi thấy rất rõ:
Sau khi Mã Viện diệt nhà Trưng và
chiếm cứ toàn bộ đất Lĩnh Nam và miền Bắc Việt Nam, y kéo quân vào vùng biên
giới quận Nhật Nam. Người Lâm Ấp rất lo sợ, họ đem vàng bạc, châu báu
"dâng cống" cho Mã Viện và xin quy phục. Mã Viên bèn xin Hán triều
đặt tên vùng đất người Lâm Ấp đang cư trú ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên là huyện Tượng Lâm, bổ nhiệm huyện lệnh Tầu lo việc cai trị và đặt
huyện này dưới quyền thống trị của Thái thú quận Nhật Nam. Cái khéo của Mã
Viện là kết hợp đất Tượng Quận
và huyện Lâm Ấp
ở bên Tầuhành huyện Tượng Lâm cho
người Lâm Ấp ở bên Việt (hầu hết các sử gia Việt đều tưởng rằng địa danh
Tượng Quận ở phía Nam sông Dương Tử là tên cũ của địa danh Tượng Lâm).
Chẳng những thế, y cướp đoạt hàng
ngàn trống đồng và các dụng cụ bằng đồng dùng trong việc thờ cúng của dân
Việt đúc thành một trụ đồng rất lớn và trồng giữa ranh giới Nghệ An và Quảng
Bình để phân biệt đất Lâm Ấp và đất Lạc Việt dù rằng Tượng Lâm cũng là một
huyện trực thuộc quận Nhật Nam.
Mã Viện biết rất rõ nhóm dân hối lộ
vàng bạc cho y là con cháu người Lâm Ấp (Bách Việt) ở Tượng Quận (bên Tầu)
nên y đặt tên huyện Tượng Lâm và phong đất này cho họ. Tuy nhiên y vẫn cứ gọi họ là Chàm và trồng trụ đồng giữa biên giới hai tỉnh Nghệ An và Quảng
Bình, tại sao? - Rõ ràng y muốn dấu tung tích của đám
dân này để chia rẽ hai đồng chủng Lạc Việt và Việt Thường.
Kể từ đoạn nầy, chúng tôi chỉ nói về
người Lâm Ấp ở địa bàn Tượng Lâm và xin quý độc giả tạm quên địa bàn
"huyện Lâm Ấp và Tượng Quận bên Tầu". Khi minh định Lâm Ấp không
phải là Chàm, chúng tôi sẽ dùng lại huyện Lâm Ấp này.
Huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam
là một trong 9 quận Việt cổ đang bị Tầu đô hộ. Ba ngàn dân huyện Tượng Lâm
nổi dậy tấn công huyện lỵ, đốt phá các dinh thự... Vậy đây không phải là Chàm
xâm lăng "nước ta" mà là dân Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm nổi dậy chống
lại quan quân đô hộ. Rõ ràng bọn quan lại đô hộ Tàu đã vu cáo cho Chàm để
chạy tội tham ô, gian ác, hiếp đáp dân lành đến độ dân chúng huyện Tượng Lâm
đã nổi lên "làm loạn"!
H. "Năm 137, Hậu Hán Thư lại ghi rằng người Man ở cõi xa thuộc huyện
Tượng Lâm, quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đem vài ngàn người đánh huyện Tượng
Lâm, đốt thành quách, công sở, giết người Trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là
Phàn Diễn đem hơn một vạn quân thuộc hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân đến cứu,
nhưng quân lính sợ phải đi xa đã quay lại đánh phá phủ lỵ . Phàn Diễn tuy dẹp
được bọn quân sĩ làm phản nhưng thế lực quân Man mỗi ngày một mạnh"
(Tr.114)
Lại dân Man (Lâm Ấp) nổi dậy dưới sự
lãnh đạo của một người (tộc trưởng?) tên là Khu Liên. Họ đốt phá thành quách,
công sở và giết Trưởng lại Tầu chứ không cướp bóc của dân Việt. Hơn một vạn
quân Giao Chỉ và Cửu Chân được điều động tới dẹp loạn. Một vạn quân này hẳn
là người Lạc Việt mới hợp tác với quân Lâm Ấp đánh lại bọn quan lại Trung
Hoa. Sau vụ này, huyện lỵ Tượng Lâm vẫn còn nằm trong tay nghĩa quân Tượng
Lâm.
I. "Năm sau (năm 138), Thị Ngự Sữ Giả Xương sang công cán ở quận
Nhật Nam đã cùng với các châu quận hợp sức đánh Khu Liên nhưng đánh không
lại, lại bị bọn Khu Liên phản công và bao vây hơn một năm khiến quân Hán lâm
vào tình trạng thiếu lương ăn và vua Hán lo ngại triệu tập các Công khanh .
Sau nhiều cuộc nghị luận sôi nổi, cựu thứ sử Tinh Châu là Chúc Lương và
Trương Kiều, người đã dẹp giặc Ích Châu đã được triều đình bổ làm thái thú
Cửu Chân và thứ sử Giao Châu (phủ đô hộ đóng ở Giao Chỉ). nhờ khéo phủ dụ,
hai viên quan mới này đã ổn định được tình thế." Tr.115
Vậy Lâm Ấp là ai mà các sử gia Việt
đều theo Tầu mà gọi là Chàm? Và mĩa mai thay, các sử gia của ta cũng bắt
chước Tầu gọi rằng: " giặc
Chàm đánh nước ta!"
K. "Năm 160, khi nhân dân huyện Cư Phong dưới sự lãnh đạo của Chu Ðạt chống lại sự tham
bạo của viên huyện lệnh, "quân Man" (Lâm Ấp) đã tiếp tay. Số người làm loạn lên tới bốn, năm ngàn. Họ tấn công vào quận Cửu Chân. Thái thú Nghê Thức ra đánh bị tử trận. Nhà Hán sai Ðô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng đi
đánh, phá tan được.Nhưng
tướng giặc vẫn còn chiếm đóng Nhật Nam, thế lực ngày một cường thịnh. Nhà Hán lại phải sai Hạ Phương sang chiêu dụ. Nhờ
uy tín có sẵn, Hạ
Phương đã khiến được 20.000 quân giặc đầu hàng" Tr.115
Nhà Hán sai tướng Ngụy
Lãng điều quân từ Cửu Chân vào Nhật Nam đánh dẹp cuộc nổi dậy có quy mô lớn
của Chu Ðạt, nhưng quân Ngụy Lãng đã bị thất bại, có thể y đã bị giết chết.
Sau đó, nhà Hán phải sai thứ sử Giao Châu là Hạ Phương đem đại quân từ Giao
Chỉ đến đàn áp. Chắc chắn cuộc đàn áp rất tàn khốc, đến độ các đạo Nghĩa quân
đang chiếm giữ quận Nhật Nam và các huyện của quận này đã phải đầu hàng. Tổng
số Nghĩa quân đầu hàng lên tới 20.000 người. Như thế có nghĩa là dân Việt
huyện Cư Phong ở Cửu Chân và quận Nhật Nam cùng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của
anh hùng Chu Ðạt rất đông. Có lẽ sau khi Chu Ðạt bị tử trận (?) thì Nghĩa
quân mới đầu hàng. Nếu số Nghĩa quân đầu hàng lên tới 20.000 thì số bị Nghĩa
quân bị tàn sát không dưới 10.000.
L. "Theo các tài liệu của người Tàu, niên đại chính thức của sự
thành lập vương quốc của người Chàm là năm 192. Năm đó con của viên công tào
bản xứ tên là Khu Liên, đã lợi dụng tình trạng suy yếu của nhà Hán, giết viên
huyện lệnh huyện Tượng Lâm và xưng làm vua. Khu Liên cũng là tên của nhóm
người nổi loạn năm 137. Vương quốc này được người Trung Hoa gọi là Lâm Ấp là
do sự gọi tắt của Tượng Lâm Ấp có nghĩa là kinh đô hay đúng hơn là lỵ sở của
Tượng Lâm (có nghĩa là rừng voi). Trung tâm của nước này theo các nhà khảo
cứu hiện đại là các vùng kế cận thành phố Huế ngày nay". Tr.116
M. "Năm 433, tiến hơn một bước nữa, Phạm Dương Mại (vua nước Lâm Ấp) sai sứ sang cống nhà Tống, xin quản lãnh Giao Châu
nhưng không được vua nhà Tống chấp nhận".Tr.120
N. "Phạm Dương Mại do đó tiếp tục cướp phá Giao Châu khiến năm 446
nhà Tống phải cử Ðàn Hòa Chi và Tông Xác đem quân đi đánh. quân Chàm đại bại.
Chỉ Phạm Dương Mại và các con chạy thoát được thân." Tr.120
Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại liền tạo
sức ép quân sự bằng cách cho quân đội tấn công thẳng vào phủ trị Giao Châu.
Mười ba năm sau tức là năm 446 nhà Tống sai tướng Ðàn Hòa Chi và Tông Xác đem
đại binh giải cứu Giao Chỉ, ngoài đánh vào, trong đánh ra khiến quân Lâm Ấp
đại bại. Vua Phạm Dương Mại và con trai thoát được nhưng quân
đội Lâm Ấp thì bị tàn sát toàn bộ, vô cùng khủng khiếp. Nước Lâm Ấp từ đó suy
yếu hẳn. Cuộc chiến này giằng co suốt 13 năm, chắc chắn vô cùng cam go khiến
Lâm Ấp kiệt quệ và đi đến chỗ đại bại.
Chúng tôi đã dẫn chứng những tài liệu của sử gia Phạm Cao Dương và một số học giả khác ghi lại từ các sách sử Trung Hoa nói về các cuộc chiến tranh giữa Trung Hoa và Lâm Ấp đồng thời chỉ ra những phần quan trọng để xác minh rằng Lâm Ấp không phải là Chàm (Chiêm Thành), mà là một dòng dân rất gần với Việt tộc. Họ thường xuyên liên minh với dân Việt Lạc đánh đuổi xâm lược Trung Hoa. Cho đến năm 192 là năm người Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm chính thức lập quốc. Các cuộc liên minh nổi dậy giữa Việt tộc với Lâm Ấp như trên còn kéo dài liên tục vào những năm tiếp theo: 220, 230, 248, 353, 399, 413, 415, 420, 424, 431, 433, 446, 448, 627. 808
Trong suốt thời gian kể trên người
Lâm Ấp liên tục liên minh với dân Việt đánh phá các phủ huyện đô hộ Tàu ở các
quận Nhật Nam, Cửu Chân có khi tràn tới quận Giao Chỉ. Dù ghi như trên, thỉnh
thoảng sử gia Phạm Cao Dương vẫn theo sát sách sử Trung Hoa, cứ gọi Lâm Ấp là
Chàm.
Chúng tôi xin mời quý độc giả xem qua
Việt Sử Toàn Thư của Sử gia Phạm Văn Sơn trước:
O. ". Trung quốc lại trở về cái cảnh tam phân ngũ liệt gần giống như
thời Ðông Chu . các ngai vàng luôn luôn thay đổi. Do vị trí của nó, Giao châu
thuộc về Nam Tống . Năm 448 Lâm Ấp nhân cơ hội (Trung Hoa nội
loạn) cử Sứ sang điều đình với Tống triều xin lãnh đất Giao châu, nhưng đề
nghị của họ không được chấp thuận". Trang 131
P. "Trái lại năm 468 tháng ba, mùa hạ, triều Tống cử Ðàn Hòa Chi
sang làm thứ sử Giao châu và đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp sợ xin trả lại những
người Nhật Nam bị Lâm Ấp bắt trước đây và nộp vàng để tạ tội".tr.131
Q. Ðoạn sau đây khá dài, xin tóm tắt: Mặc dù Lâm Ấp nộp vàng xin tạ tội nhưng đại quân
Ðàn Hòa Chi vẫn tấn công, tàn sát dân Lâm Ấp cực kỳ dã man. Vua Phạm Dương
Mại phải dẫn vợ con chạy trốn. Quân Tống tha hồ vơ vét vàng bạc.Tr.131
R. "Sử không ghi rõ ràng sau cuộc thắng trận này nhà Tống có lập nền
đô hộ ở Lâm Ấp không, có lẽ họ đã cho Lâm Ấp đầu hàng và hàng năm nộp
cống."Tr.131
Việt Sử Tân Biên cũng của Sử gia Phạm
Văn Sơn (gồm 7 cuốn với khoảng 4000 trang) ghi thêm:
S. "Người ta nghi rằng khai sinh ra nước Lâm Ấp là bọn giặc bể dòng
giống Mã Lai đã xâm nhập vào đất Trung Việt truớc kỷ nguyên có kinh thành là
Khu Túc ở Huế bây giờ."Tr. 215/Q.I.
Sử gia Phạm Văn Sơn viết "người ta nghi" tức
là các sử gia không biết đích xác Lâm Ấp là ai, họ ngờ rằng Lâm Ấp là giặc bể từ Mã Lai
đến. Nhưng họ quên rằng, nhiều năm trước, khi Tần Thủy Hoàng xua quân tấn
công các nước Việt phương Nam và tàn sát dân Việt vô cùng dữ dội. Nhiều dòng
Bách Việt trong đó có dân Ấp Lâm của nước Việt Thường đã dùng thuyền chạy về
phương Nam tị nạn. Cũng do vậy, cái tên nước Việt Thường, quốc giới của Việt Thường, Tượng Quận. dính vào ba
tỉnh miền Trung này. Và, thêm một minh xác rất quan trọng: Hai tênhai châu Ô, Châu Rí của
Chiêm Thành hoàn toàn chưa xuất hiện trong giai đoạn 1000 năm lệ thuộc này.
Chúng tôi nghĩ rằng, tại ba tỉnh
Bình, Trị, Thiên này trước và trong thời gian người Lâm Ấp lập quốc đã có một
số bộ lạc Chàm sống rải rác ở đó. Tuy nhiên người Chàm không đủ mạnh để chống
lại sự cai trị của người Lâm Ấp. Cũng vì thế mà giới quan lại và sử gia Trung
Hoa cứ nhất định đồng hóa Lâm Ấp (Bách Việt) với Chàm theo chủ trương chia rẽ
hai dòng Việt Lạc và Việt Thường.
Tại sao có sự giống Mông Cổ ở đây?
Ðiều này không lạ, theo Tiến sĩ J.Y. Chu trên Tạp chí khoa học The Nation
Academy Of Science - USA ngày 29/7/1990 thì người Hiện đại đầu tiên xuất hiện
từ đông Phi Châu cách đây vào khoảng 150.000 năm. Từ đây họ dần dần di cư ra
khắp thế giới. Có nhóm tiến về
phía đông qua Ấn Ðộ, tới bán
đảo Trung Ấn rồi tách ra làm hai: Một tiến lên phía đông bắc băng qua bắc
Việt Nam, Trung Hoa, Mông Cổ, đông Tây Bá lợi Á rồi băng qua eo biển Bering
mà vào Châu Mỹ. Hai đi xuống phía nam, băng qua Thái Lan, Mã Lai rồi ra các
quần đảo. Trong nhóm lên phía tây bắc chắc chắn có tổ tiên Miêu tức Viêm và
nhiều tổ tiên của các chủng khác như Tây Tạng, Mông Cổ. Vậy Việt Thường có
lai hay trông giông giống Mông Cổ cũng không lạ vậy.
Chúng ta đã biết lịch sử giữa Chiêm
Thành và Ðại Việt kể từ năm 981 (thời nhà Tiền Lê), đến các nhà Lý, Trần và
các họ về sau cho tới Chúa Nguyễn là những cuộc chiến tranh tàn khốc và hận
thù triền miên cho đến khi Chiêm Thành bị Việt tộc nuốt trọn. Trong khi đó
giữa Lâm Ấp và Việt tộc, các quận Nhật Nam, Cửu Chân luôn luôn kết hợp ngoài
đánh vào, trong nổi dậy, cùng tấn công kẻ xâm lược Trung hoa rất nhịp nhàng
trong suốt 700 năm gần như không ngưng nghỉ.
Nếu Lâm Ấp là Chiêm Thành với mảnh
đất chỉ bằng vài tỉnh nhỏ (Bình, Trị, Thiên), chắc chắn họ không dám xin
"lãnh" Giao châu vốn là thủ phủ 9 quận Việt tộc đang bị Tầu đô hộ.
Chín quận này đất rộng người đông gấp 20 lần Lâm Ấp.
Nói cách khác, Lâm Ấp kiên trì, tích
cực, liên tục hợp tác với Việt tộc tấn công các phủ trị đô hộ Trung Hoa đến
độ bị họ đàn áp đến độ suy kiệt và đi vào diệt vong là do họ chung dòng Bách
Việt với Việt tộc, hai dân tộc cùng mang nổi căm thù đô hộ Trung Hoa cực kỳ
sâu nặng. Chúng tôi tin rằng, vua quan Lâm Ấp đã có quyết định khôn ngoan khi
vừa giúp giải phóng đồng chủng 8 quận, vừa thâu hồi lại quê hương Việt Thường
của họ.
Một điều rất rõ ràng là trong khi
nước Lâm Ấp với kinh đô đặt tại Khu Túc trong phạm vi tỉnh Thừa Thiên hiện
nay đang gây sóng gió liên tục với quan quân đô hộ Trung Hoa, thì Chiêm Thành
đã lập quốc rất lâu trước đó với kinh đô Chiêm Bà (Quảng Ngãi) sau đó dời về
Ðồ Bàn (Quảng Nam). Chứng tỏ Lâm Ấp là Việt Thường - Chiêm Thành là Chàm, hai
dân tộc này hoàn toàn khác nhau.
II/9C .- ÐOẠN SỬ BI ÐÁT CUỐI CÙNG
CỦA NGƯỜI VIỆT THƯỜNG NƯỚC LÂM ẤP
Sách Cương Mục Tiền Biên chép: "Khoảng giữa niên hiệu Trinh Quan (627-649)
nhà Ðường, vua Lâm Ấp là Ðầu Lê chết, con là Trấn Long bị giết, người trong
nước lập con bà cô của Ðầu Lê là Gia Cát Ðịa lên làm vua. Gia Cát Ðịa đổi quốc
hiệu là Hoàn Vương và thường cho quân sang xâm lấn An Nam. Hoàn Vương do đó
bị quan đô hộ An Nam là Trương Chu đánh phá phải bỏ Lâm Ấp dời đến đất Chiêm,
gọi là nước Chiêm Thành. Bấy giờ thành Phật Thệ ở Phủ Thừa Thiên, Thành Chà
Bàn ở tỉnh Bình Ðịnh đều là di tích cố đô của Chiêm Thành thời đó.
Sách Việt Sử Toàn Thư thì chép: Chư Cát Ðịa đổi quốc hiệu ra Hoàn Vương quốc nhưng
nước này vẫn quen thói quấy nhiểu Giao Châu. Ðã có phen họ chiếm được châu
Hoan, châu Ái (tức là hai tỉnh Thanh, Nghệ của ta) - Hai thế kỷ sau vào năm
Mậu Tý (808), Ðô hộ Trương Chu lại đem quân đánh Hoàn Vương quốc rất tai hại
khiến họ phải lui xuống phía Nam (hai vùng Nam, Ngãi bây giờ). Lại một lần
nữa, quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm Thành cho tới ngày nay.
Cách hành văn của 2 đoạn sử trên,
cùng trình bày giai đoạn cuối cùng của lịch sử nước Lâm Ấp nhưng có nhiều
điểm không giống nhau (thời gian và danh xưng thành Phật Thệ.). Chúng tôi xin
thử bình giải:
Thời vua Trinh Quan nhà Ðường (627 -
649), nước Lâm Ấp, vua Ðầu Lê chết, thái tử là Trấn Long vừa lên ngôi thì bị
giết, triều đình tôia Cát Ðịa là con bà cô của vua Ðầu Lê lên ngôi. Gia Cát
Ðịa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, kinh đô Khu Túc thì đổi tên là Phật Thệ và
tiếp tục đường lối của tổ tiên, tiến hành những cuộc liên minh quân sự với
Lạc Việt đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi bờ cõi. Trong gần 200 năm (từ
khoảng 627 - 808) họ tổ chức nhiều cuộc nổi dậy có lúc họ chiếm được Cửu
Chân và Nhật Nam. Năm 808, triều đình Trung Hoa sai tướng Ðô hộ Trương Chu
đem đại binh tiêu diệt Hoàn Vương quốc (Lâm Ấp).
Lần thứ hai từ sau ngày gạt lệ rời bỏ
quê hương Việt Thường bên hồ Phiên Dương năm 221 Tr. CN ; con cháu Việt
Thường năm 808 sau CN , kẻ ra đi, người ở lại và hàng vạn người nằm xuống,
dưới những nấm mộ tập thể, chôn vùi đây đó trong vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên.
Nước Lâm Ấp hoàn toàn bị tiêu diệt.
Khi quân Trương Chu rút đi thì nước Chiêm Thành đã lập quốc từ lâu với kinh
đô Ðồ Bàn (Quảng Nam) liền vượt đèo Hải Vân tiến ra chiếm đất Tượng Lâm (Bình, Trị, Thiên). Người Việt
Thường, Lâm Ấp một số lánh nạn lên vùng núi hay ra bờ gần biển, một số khác
chạy ra Nghệ An, Thanh Hóa sống chung với dân Lạc Việt, một số ở lại trở
thành nô lệ Chiêm Thành.
Từ đầu thế kỷ thứ 9, lịch sử nước ta
không còn nhắc đến tên huyện Tượng Lâm hoặc nước Lâm Ấp nữa. Vùng đất này có
tên mới: Châu Ô, Châu Rí (Lý)
do Chiêm Thành đặt. Cũng từ năm ấy, sử Việt chép rất kỷ các giai đoạn
"chiến tranh và hòa bình" giữa Ðại Việt và Chiêm Thành.
Năm 1304, đời nhà Trần, khi vua Chiêm
Chế Mân, dâng hai châu Ô, Lý để xin cưới Công chúa Huyền Trân thì con cháu
Việt Thường ở lại với Ðại Việt trong khi dân Chiêm Thành rút về phía nam đèo
Hải Vân.
Năm 1697, phần đất cuối cùng của
người Chàm bị chúa Nguyễn Phúc Chu nuốt trọn và nước Chiêm Thành hoàn toàn bị
xóa tên.
1. Một số sử gia cho rằng Việt Thường là tên nước Việt Nam cổ, tức là
toàn miền Bắc Việt Nam ra tới Ðèo Ngang.
5. Ông Lê Chí Thiệp nói rằng, xem bản đồ Trung Hoa thế kỷ 20 Tr. CN còn
chia ra nhiều bộ lạc trình độ khác nhau thì không thể tin được Sứ giả Việt
Thường vượt đường bộ từ Bắc Việt, hoặc theo hải đạo đến được thành Bình Dương
là kinh đô của vua Nghiêu tận tỉnh Sơn Tây, phía Bắc sông Hoàng Hà và dưới
đời Chu lại đến thành Tây An ở phía Nam sông Vị, tỉnh Thiểm Tây bấy giờ. Theo
lẽ đương nhiên, chỉ có gần gũi nhau, chịu ảnh hưởng của nhau mới có sự giao
dịch với nhau. Tóm lại, Việt Thường tất không xa Hán tộc, có lẽ ở phía Nam
sông Dương Tử vùng hồ Phiên Dương và sông Dương Tử. Lý luận này theo ý chúng
tôi có ý nghĩa hơn cả. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
6. Ở trang 39 VSTB ghi "Kinh Thư chép đất Dương có nhiều giống chim
lạ, đất Kinh có nhiều rùa lớn thì Việt Thường ở vào khu hồ Phiên Dương và
hồ Ðộng Ðình, như vậy ta càng thấy sự đối hợp với việc cống chim Trĩ và Rùa
lớn.
* Y hệt thổ dân Ðài Loan năm 1949 bị
đoàn quân bại trận của tổng thống Tưởng Giới Thạch khống chế ngay khi họ đổ
bộ lên đảo này.
Dân tị nạn Lâm Ấp "vui
sống" ở đó, trải từ cuối thời Âu Lạc của Thục An Dương Vương, qua Nam
Việt của nhà Triệu, rồi nhà Hán xâm lăng Nam Việt và đặt phủ trị đô hộ. Cho
đến khi Mã Viện diệt Hai Bà Trưng vào năm 43 là 264 năm. Mã Viện đem quân
đuổi đánh tàn quân Hai Bà vào tận đất Nhật Nam. Người Lâm Ấp một mặt không
giúp Hai Bà Trưng, một mặt thất hứa với Mã Viện trong việc tấn công mặt hậu
Lĩnh Nam. Bây giờ lại hối lộ Mã Viện rất nhiều vàng bạc châu báu để được yên
thân. Nhờ vậy, Mã Viện lập huyện Tượng Lâm trực thuộc quận Nhật Nam và cho
người Lâm Ấp tiếp tục cư trú ở đó. Như vậy, Lâm Ấp đã tỏ ra rất khôn ngoan.
Họ "ừ! è!." với Mã Viện nhưng nhất định không tiếp tay cho giặc để
đánh đồng chủng. Có lẽ họ dư biết dù liên minh với Lĩnh Nam cũng không chống
nổi với Mã Viện. Khi biết Hai Bà Trưng đã hoàn toàn thất bại trước Mã Viện
thì họ dâng vàng bạc để được yên thân mài nanh vuốt chờ dịp quật khởi. Quả
nhiên, kể từ năm 102 (60 năm sau), khi đã có thực lực, Lâm Ấp tung ra hàng
loạt cuộc tấn công vào quân đô hộ Tầu không ngưng nghỉ.
Theo sách Cương Mục, năm 192 tức là
408 năm sau khi dân Lâm Ấp định cư ở Tượng Lâm quận Nhật Nam, con cháu người
Việt Thường tị nạn chính thức tái lập quốc gia. Chúng tôi không biết ngoài
tên nước Lâm Ấp, Chàm, Chiêm Thành mà sử Tầu thường gọi, họ có quốc hiệu nào
khác không. Sau khi lập quốc, họ tiếp tục tổ chức kết hợp với dân Việt ở
nhiều địa phương Việt Lạc liên tục tấn công các phủ trị đô hộ Tầu các quận
Nhật Nam, Cửu Chân có khi vươn tới quận Giao Chỉ. Triều đình Trung Hoa phải
vô cùng chật vật để bảo vệ quyền đô hộ. Cho đến năm 468 nhà Tống đưa đại binh
tấn công nước Lâm Ấp, tàn phá 55 thành khiến nước Lâm Ấp yếu đi.
II/9E1 .- BÍ MẬT NGÔN NGỮ VIỆT THƯỜNG: 3
LÀNG LONG HƯNG, ÐẠI NẠI & MỘ TRẠCH NÓI TIẾNG GÌ?
Những địa phương ngữ nói trên, chắc
chắn có pha trộn ít nhiều với tiếng Chàm khi mà người Lâm Ấp đã từng sống
chung với người Chàm cả ngàn năm trong suốt thời kỳ lệ thuộc Trung Hoa.
Chúng tôi không biết nhiều về ngữ
học, cũng xin lạm bàn để phân biệt tiếng Lâm Ấp và tiếng Chàm trên một quy
tắc đơn giản như sau: Tiếng nào nghe na ná hoặc có vần như tiếng Việt toàn
quốc là tiếng Lâm Ấp đồng chủng Việt tộc, còn tiếng nào không giống ai là
tiếng Chàm.
Tỉ dụ 1 : MÓI nghe na ná và cùng vần với
MUỐI, GIÃY TỌT cùng
vần với NHÃY VỌT. thì mói, giãy tọt là tiếng của Lâm Ấp đồng chủng Việt tộc.
Tỉ dụ 2 : RÀO là sông, cái TRỐT là cái ÐẦU, CÔI là TRÊN. rõ ràng RÀ0,
TRỐT, CÔI. không giống ai thì có thể là
tiếng vay mượn của Chiêm Thành.
Vậy chúng ta tạm có bản phân tích
dưới đây
1.- Những tiếng nghe na ná hoặc
đồng vận như : rọn :
ruộng ; nác :
nước ; mói :
muối ; sưa: thưa ; su : sâu ; chộ nớ : chỗ đó ; tra : già ; lộ mụi : lỗ mũi ; mự : mợ ; trộ mưa : trận mưa ; cơm siu : cơm
thiu ; bấp : vấp ; giều : nhiều ; bo bố ; mần chi hỉ : làm gì nhỉ ; chưn : chân ; con giện : con nhện ; bưa : vừa ; lấy dô-ôn : lấy chồng ; hun : hôn ; maui : mẹ tôiণ46; là tiếng
Bách Việt dòng Việt Thường.
2.- Những tiếng khác vần hoặc không
giống ai như: trốt :
đầu ; chạc : sợi
dây ; lọi :
gãy ;rào : sông ; tê : kia ; rứa : thế ; răng : sao ; nôốt : thuyền ; nậy : lớn ; cái đọi : cái tô . có thể là tiếng vay mượn của Chàm, Chiêm Thành.
Xét tổng quát, ngôn ngữ miền bắc và
miền nam (kể cả Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa. vốn là quê hương của Chiêm Thành),
khi nói lên, mọi người trên toàn quốc có thể nghe và hiểu nhau dễ dàng mặc dù
có một vài đặc âm, đặc ngữ nhưng không đáng kể.
Riêng ngôn ngữ của vùng Thừa Thiên,
Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa (nhất là thời gian chữ quốc ngữ chưa thông dụng) thì
hai miền bắc và nam Việt Nam phải cố gắng lắm mới hiểu được. Nếu chẳng may
gặp phải dân ở ba làng Long Hưng, Ðại Nại và Mộ Trạch (80% đặc âm + đặc ngữ) nói
ở trên thì không thể biết được họ muốn nói gì. Y hệt như ta nghe người. Tây
Tạng nói chuyện!! Nhất định những đặc âm, đặc ngữ ấy là do các
dân tộc dòng Bách Việt vì biến động lịch sử mà phải thay đổi nơi cư trú đã
xuất hiện trong dòng Lạc Việt.
Qua bản phân tích đơn giản nói trên,
chúng tôi thấy rõ dân ba làng Long Hưng, Ðại Nại và Mộ Trạch đúng là con cháu
của dòng Việt Thường còn sót lại. Còn dân chúng các tỉnh Thừa Thiên, Quảng
Trị, Quảng Bình cho đến cả Nghệ An, Thanh Hoá rất có thể trong huyết
quản có lẫn ít nhiều máu Việt Thường.
II/9E2 .- TƯỢNG NGƯỜI ÐẦU CHIM BẰNG
ÐỒNG ÐEN Ở CHÙA PHẬT LỒI
Khoảng năm 1920 (?), trời làm lụt lớn
trên sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Nước lụt xoi mòn bờ cát phía làng Nhan Biều
đối diện với tỉnh lỵ. Sau lụt, dân làng phát giác một đầu chim bằng đồng lồi
trên bờ cát. Ðào lên thì đó là một tượng người đầu chim bằng đồng đen, nặng
khoảng 60 ký. Dân làng Nhan Biều liền xây một ngôi miếu thờ Người Chim gọi là
chùa Phật Lồi. Nhiều năm sau, quan sứ Quảng Trị (người Pháp) đem lính đến
miếu tịch thu tượng "Người Chim", nói rằng đem về Pháp nghiên cứu!?
Ngày tôi còn ở Quảng Trị, mạ (mẹ) tôi
vốn sinh trưởng ở làng Nhan Biều tả hình dáng tượng Người Chim như sau: cổ
chim khá cao, mõ chim dài, mạnh khỏe, mồng chim lớn và thẳng đứng. Bên dưới
cổ là thân người "trơn tru" không tạc quần áo. Hai chân chim khẳng
khiu, giống bàn chân người, đứng trên một cái đế, tất cả bằng đồng đen . Ngày
nay nhớ lại, tôi tin chắc rằng đó là biểu tượng "Người Chim" của
người Lâm Ấp đem từ đất nước Việt Thường đến đất Quảng Trị cổ hoặc họ đã đúc
ở đấy.
Như chúng tôi đã dẫn chứng, nước Việt
Thường cổ ở giữa hồ Phiên Dương và hồ Ðộng Ðình. Vùng này có rùa lớn và giống
chim Trỉ rất đẹp. Người Việt Thường thờ chim Trĩ làm biểu tượng như người Lạc
Việt thờ chim Lạc. Họ đã từng đem rùa lớn có khắc lịch nông nghiệp trên mai
rùa tặng vua Nghiêu khoảng năm 2300 Tr. CN. Ðến năm 1100 Tr. CN họ lại đem
tặng vua nhà Tây Chu một đôi chim Bạch Trĩ để tỏ lòng "ngưỡng mộ",
thì chúng ta sẽ không sai khi nghĩ rằng:
Người Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm đúng là dân nước Việt Thường cổ đã từng di cư
đến tị nạn ở đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và tái lập quốc gia Lâm Ấp
ở đó.
Từ những minh xác về nguồn gốc người
Việt Thường nước Lâm Ấp, chúng tôi có những ý kiến như sau về bộ môn
"văn nghệ cổ *"
của miền ba tỉnh Bình, Tri. Thiên, nhất là vùng đất chung quanh Huế (vốn là
kinh đô Khi Túc của Lâm Ấp) như sau:
* Chúng tôi gọi chung là văn nghệ cổ,
trong đó có âm nhạc, ca dao, tục ngữ, chuyện cổ, vè, ca múa, thổi kèn, đánh
đàn, đánh trống, truyền thống lễ nhạc.xuất phát từ dòng Việt Thường này.
Chúng tôi rất mong sẽ có nhiều học giả để tâm nghiên cứu sâu rộng những vấn
đề mà tôi đề cập sơ lược hôm nay.
1.- Ðất Bình, Trị, Thiên (huyện Tượng
Lâm) vốn là đất cư trú của người Lâm Ấp từ năm 221 tr. CN đến năm 808 sau CN (tồn tại hơn 1000 năm) thì bị
Chiêm Thành chiếm và đổi tên là châu Ô, châu Rí (Xin lưu ý: Dù bị chiếm mất nước, người Lâm Ấp và
văn hóa của họ vẫn tồn tại ở đó). Năm 1.304, vua Chiêm Chế Mân
dâng hai châu này cho nhà Trần đển xin cưới Công chúa Huyền Trân. Rõ ràng
người Chiêm không màng đến một vùng đất vốn không phải là của họ. Tất nhiên
họ cũng không thiết tha, khóc thương đến độ䠰hải đặt ra những điệu nhạc ai
oán, não nuột như thế.
2.- Vùng đất phía nam xứ Huế như
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa. có kinh đô Chàm Ðồ Bàn
và là địa bàn định cư lâu đời của Chàm, nếu có nhạc ai oán vì mất nước thì
phải xuất hiện tại vùng này chứ không phải từ Huế trở ra.
3.- Người Việt Thường vốn là một dân
tộc có văn hóa cao. Khi
phải bỏ nước ra đi vì giặc ngoại xâm (Tần Thủy Hoàng) tất nhiên nỗi tủi nhục,
sầu hận nước mất nhà tan của họ phải vô cùng cay đắng, sâu nặng. Văn nghệ của
họ chắc chắn đã bị ảnh hưởng từ các cuộc ra đi tị nạn đó. Trải qua bao thăng
trầm, cuối cùng mới lập được quốc gia Lâm Ấp. Rồi nước Lâm Ấp lại cũng bị
điêu tàn, bị chiếm đoạt và phải làm nô lệ dân Chiêm Thành.
4.- Việt Thường và Lạc Việt đồng
chủng, đồng ngôn ngữ (dù phát âm hơi
khác), đã từng chung vai sát cánh chống lại đô hộ Trung Hoa suốt
bảy trăm năm. nhất định hai dân tộc này đã có thông gia, có trao đổi văn hóa
một cách mật thiết.
Những điệu Nam Ai, Nam Bình và nhiều
loại văn học khác như văn, thơ, ca dao, chuyện cổ, ca vè. của các vùng liên
hệ tất nhiên chịu ảnh hưởng từ văn nghệ Việt Thường. Nếu so nổi buồn Việt
Thường với những cung điệu ai oán sầu hận của người Việt tị nạn ở hải ngoại
ngày nay với những bản nhạc "Sài Gòn
Ơi Vĩnh Biệt", "Người Di Tản Buồn", "Khi Xa Sài
Gòn", "Sài Gòn Niềm Nhớ Không Quên", "Ai Trở Về Xứ
Việt", "Em Nay Ở Phương Nào". Với hàng vạn bài
thơ, truyện, ca dao mới. nói lên niềm chua xót nước mất, nhà tan... Hai nổi
đau thương, khắc khoải của hai dân tộc Việt Lạc, Việt Thường trong hai giai
đoạn lịch sử cực kỳ đau thương ấy, chắc cũng không khác nhau bao nhiêu.
Chúng tôi tin rằng những biệt sắc văn
nghệ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình kể cả Nghệ An và Thanh Hóa
một số lớn là di sản văn hóa Việt Thường chứ không phải là của Chàm như chúng
ta vẫn tưởng.
II/9F .- LỊCH SỬ NƯỚC TA THỜI LỆ THUỘC
VÀ TIỂU QUỐC LÂM ẤP CẦN TU CHỈNH LẠI
Tiểu quốc Lâm Ấp, dòng Việt Thường,
đồng chủng Việt tộc hào hùng của ngàn năm trước, hậu duệ của quý ngài còn đấy
như chúng tôi đã phân tích? Hay đã hòa tan trong dòng Ðại Việt của các thời
đại Ngô, Ðinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn? Hai vị anh hùng Khu Liên người
tái lập quốc gia Lâm Ấp; Chu Ðạt,
người lãnh đạo 30.000 nghĩa
quân đánh chiếm hai quận Cửu Chân và Nhật Nam là ai? Và biết bao anh hùng,
liệt nữ hai nước Việt Lạc và Việt Thường đã bỏ mình trong suốt 700 năm lịch
sử nổi dậy bất thành ấy? Có ai dành cho họ giọt nước mắt, nén hương thương
tiếc, đồng thời làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử đầy máu và nước mắt nhưng vô
cùng hào hùng ấy!
Những người anh hùng ấy chắc
chắn phải được vinh danh trong lịch sử Việt tộc.
Chúng tôi thiết tha kêu gọi các nhà
làm sử Việt Nam, các học giả đang nghiên cứu thực hiện bộ sách Giáo khoa
Tiểu, Trung và Ðại học nên tu chỉnh các đoạn sử này để khỏi phụ lòng những
anh hùng Việt tộc ở hai quận Cửu Chân và Nhật Nam cùng cả một dòng giống Việt
Thường oanh liệt cổ xưa đã hết lòng với tổ tiên Việt tộc trong nỗi khốn cùng
một ngàn năm đô hộ! Ðiều này rất cấp thiết.
Chúng tôi đề nghị viết lại các biến chuyển lịch sử Việt Nam nên dựa
trên 4 điểm chính sau đây:
2.- SAU ÐÓ MỘT SỐ DÂN VIỆT THƯỜNG Ở
HUYỆN LÂM ẤP, TƯỢNG QUẬN THEO ÐƯỜNG THỦY CHẠY VỀ PHÍA NAM. HỌ ÐỔ BỘ LÊN ÐẤT
QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN VÀ ÐỊNH CƯ Ở ÐÓ. VÙNG NÀY VỐN LÀ ÐẤT
HOANG DÃ Ở VỀ PHÍA NAM CỦA QUẬN NHẬT NAM. NĂM 43, NHÀ HÁN SAI MÃ VIỆN XÂM
LĂNG LĨNH NAM, MÃ VIỆN LẬP ÐẤT NÀY LÀ HUYỆN TƯỢNG LÂM, ÐẶT HUYỆN LỆNH CAI TRỊ
VÀ CHO NGƯỜI LÂM ẤP CƯ TRÚ Ở ÐÓ. NĂM 192, NGƯỜI LÂM ẤP GIẾT HUYỆN LỆNH TẦU MÀ
LẬP QUỐC, ÐẶT KINH ÐÔ Ở KHU TÚC GẦN HUẾ .
|
No comments:
Post a Comment