Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, November 19, 2017

ĐI TÌM ĐỊA DANH CHO MỘT MỐI TÌNH ĐÃ ĐI VÀO HUYỀN SỬ - Khê Giang



ĐI TÌM ĐỊA DANH CHO MỘT MỐI TÌNH ĐÃ ĐI VÀO HUYỀN SỬ

Khê Giang

Ô Lâu được biết đến là ranh giới tự nhiên giữa Thừa Thiên- Quảng Trị, nơi hội tụ của những dòng chảy thi ca, nơi có những câu chuyện tình lãng mạn được lưu truyền trong dân gian trên cả đôi bờ của một vùng châu thổ rộng lớn. Khác với câu chuyện tình của bà Nguyễn Thị Bích (Thiếp của vua Quang Trung) và bà Dương Thị Ngọt (Phi của vua Thành Thái) phần nào được gắn kết vào các cứ liệu lịch sử, có một câu chuyện tình mặc dù chỉ được truyền khẩu qua những làn điệu ca dao, nhưng đó là một câu chuyện tình đẹp, đẫm nước mắt và lay động lòng người: chuyện cô gái đưa đò trên bến Cây Đa.
Chuyện xưa kể rằng: một ngày nọ, có chàng thư sinh nghèo xứ Nghệ, vào Kinh ứng thí, khi qua sông Ô Lâu gặp một cô gái xuân thì làm nghề đưa đò, do cô nàng ngoài nhan sắc trời lại phú cho tính tình hiền lành, khiến chàng thư sinh đem lòng yêu mến. Chẳng may năm đó chàng sỹ tử kia chưa được vinh dự ghi tên trên bảng vàng, trên đường trở về qua bến đò Cây Đa, hai người đã thề non hẹn biển và hẹn ngày trở lại vào kỳ thi sau. Ba năm đằng đẳng đợi chờ vẫn không thấy bóng dáng người xưa, nàng buồn bã quẩn chí và trầm mình xuống khúc sông nơi hai người đã thề nguyện. Nhưng nghịch cảnh trớ trêu, khi chàng thư sinh năm xưa khăn gói trở lại thì than ôi, bến cũ còn đó, con thuyền còn kia, mà người yêu xưa đã vắng bóng. Chàng đau đớn và rút ruột viết ra những vần thơ khóc cho người mệnh bạc:
Trăm năm đành lỡ hẹn thề,
Cây Đa Bến Cộ con đò khác đưa
Cây Đa Bến Cộ còn lưa,
Con đò đã thác năm xưa tê rồi!
(Cộ: cũ; Tê: kia; Lưa: còn lại; Thác: chết-mất)
Câu chuyện tình đẹp và bi thương trên là nguồn cảm hứng mực cho những đàm luận, bài viết từ giới văn nghệ sỹ cho đến những tao nhân mặc khách, họ đinh ninh rằng Cây Đa, Bến Cộ là hai bến đò nào đó trên dòng sông xưa. Vậy là những sáng tác cổ kim lần lượt ra đời: Một thi nhân nghe chuyện xưa đã cảm tác:
Qua bến Cây Đa dạ những sầu
Xót người mệnh bạc bởi vì đâu?
Gió xuân đưa khách qua đường mộc
Ngọn nước đem tình lấp vực sâu.
Nước chảy, chảy theo đôi giọt lệ
Tình riêng, riêng viếng một vài câu,.
Đau lòng nhớ lại mười năm trước
Cuồn cuộn trường giang nước chảy mau.
Và Nguyễn Bính nhà thơ đồng quê Việt nam cũng có bài viết về câu chuyện tình của cô lái đò (có thể là bến Ô Lâu hay một bến đò nào đó nơi nhà thơ đã đi qua?):
Xuân đã đem mong nhớ trở về,
Lòng cô gái ở bến sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã nặng thề!
Nhưng rồi người khắc tình xuân ấy
Đi biệt không về với bến sông!
Đã mấy lần sông trôi chảy mãi,
Mấy lần cô lái mỏi mòn trông
Xuân đến nữa là đã ba xuân,
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần!
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi,
Cô đành lỗi ước với tình quân!
( Lỡ bước sang ngang- Nguyễn Bính. 1940)
Tuy nhiên sau những trang viết trữ tình bay bổng, khi giật mình nhìn lại đa phần các tác giả đều lúng túng khi không thể tìm ra những địa danh liên quan đến câu chuyện đã đi vào huyền sử này. Sự mất định hướng của những người khi đi tìm địa danh của câu chuyện xuất phát từ cảm nghĩ đây là sáng tác của chàng thư sinh xứ Nghệ mà quên mất nó là bài ca dao đang được lưu truyền rộng rãi tại các tỉnh thuộc Bắc trung bộ.
Với nền văn hóa đặc trưng, từ rất lâu hình ảnh cây đa - bến nước - con đò đã là biểu tượng của văn hóa truyền thống làng quê Việt nói chung, vùng Bắc trung bộ nói riêng, hình ảnh ấy đã đi sâu vào tâm khảm mỗi con người, là kỷ niệm êm đềm của tuổi ấu thơ, là bến hẹn cho tình yêu đôi lứa, là ký ức về cội nguồn cho những kẻ xa quê…
Đi suốt chiều dài dòng chảy của vùng đất Bắc trung bộ, ta có thể bắt gặp hàng trăm câu ca dao dùng hình tượng Cây đa, bến cũ, con đò:
- “Cây đa trốc gốc trôi rồi/ đò đưa bến khác em ngồi đợi ai.”
- “Cây đa là cây đa cũ/ Bến đò là bến đò xưa/ Nay chừ người khác vô đưa/ Oan ơi, oan hỡi, tức chưa bạn tề!”
- “Cây đa là cây đa bến cũ/ Bến cũ là bến cũ đò xưa/Ôi thôi rồi người khác sang đưa/Thiếp nhìn chàng lưng lẻo, nước sa xuống như mưa hỡi chàng.”
- “Chèo thuyền ra rào Cái, em ngó lại quê mình/ Chim trên cành đủ cặp cớ sao mình lẻ đôi/ Bởi vì đây đó đôi nơi/ Con thuyền nan bằng chiếc đũa không một lời nhắn đưa/ Cây đa bến cũ con đò xưa/ Người thương có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.”
Tuy nhiên trong bài viết này chúng ta chỉ lược qua một số câu tương đồng nhưng dị bản với bốn câu được cho là sáng tác của chàng nho sinh trên:
“Trăm năm đành lỗi hẹn hò, /cây đa bến cũ con đò khác đưa. /Cây đa bến cũ còn lưa/ Con đò năm ngoái, năm xưa mô rồi?...”
“Trăm năm đành lỗi hẹn hò/ Cây đa bến cũ con đò khác đưa/ Con đò sớm thác năm xưa/ Cây đa bến cũ còn lưa đến chừ.”
“Trăm năm đành lỗi hẹn hò/ Cây da bến cộ con đò khác đưa/ Cây da bến cộ năm xưa/Chữ tình ta cũng đón đưa trọn đời.”
“Trăm năm dầu lỗi hẹn hò /Cây đa bến cũ con đò khác đưa./ Cây đa cũ, bến đò xưa / Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.”…
Trong nhạc phẩm “Trăm năm bến cũ” phổ thơ Lưu Trọng Văn, nhạc sỹ Phạm Duy cũng sử dụng rất có hồn hình ảnh cây đa bến nước con đò ngay những ca từ đầu tiên: “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò, Chứ cây da bến cũ con đò khác đưa...”.
Không chỉ về lĩnh vực thơ nhạc, hình ảnh cây đa, bến nước, con đò còn được các họa sỹ, chọn làm bố cục cho nhiều sáng tác của mình từ những bức vẽ dân gian cho đến những dòng tranh hiện đại.
Lược khảo những sáng tác trên, chúng ta nhận thấy cụm từ cây đa bến cộ đa phần mang tính ẩn dụ của phương pháp tu từ trong sáng tác hơn là từ chỉ về địa danh (Cây Đa, Bến Cộ). Ngoài ra nếu gán những dòng viết trên cho một chàng nho sinh, vô tình chúng ta hạ thấp trình độ chử nghĩa của những bậc nho học ngày nào. Với vỏn vẹn có bốn câu lục bát đã mắc lới hai lỗi: lỗi vần ( thề.. đò) vừa lỗi ghép từ (xưa tê) điều mà những người sáng tác vùng này khó có thể mắc phải cho dù họ chỉ là nông dân chân lấm tay bùn.
Nếu coi cụm từ Cây Đa, Bến Cộ là tên gọi của hai bến đò ngang. Chúng ta thử đi tìm hiểu về lộ trình cũng như những địa danh có thể liên quan nơi chàng sỹ tử trên đường vào kinh. Xét từ Nghệ An về Phú Xuân, không có con đường nào thuận lợi hơn đường Quan báo, con đường này còn gọi là đường Kinh sư hay đường Thiên Lý Bắc – Nam đã tồn tại trước khi chúa Nguyễn vào khai mở xứ Đàng trong, đây là tuyến giao thông thuận lợi nhất thời bấy giờ, tuyến đường này nối Phủ Thừa Thiên và Đạo Quảng Trị qua bến đò Hôm Lạng (Bờ Nam là trạm hành cung Mỹ Xuyên, bờ Bắc là làng Lương Điền ( Kẻ Lạng, Lương Phúc…)
Xuyên suốt một thời gian dài kể từ khoa thi đầu tiên cho đến khoa thi cuối cùng tại Phú Xuân, nếu gộp cả bến sông và bến đò ở những làng quê gần lộ trình của chàng sỹ tử đi qua ta có: bến Đình, bến Chợ, bến Cồn Thiêng, bến Hôm Lạng, bến Ba Bến, bến Phước tích, bến Câu Nhi Hòa, bến Mỹ Xuyên… tuyệt nhiên không có bến đò nào mang tên Cây Đa hay Bến Cộ.
Khi không tìm ra hai bến đò xưa trên đường đi của chàng nho sinh, một số tác giả lại víu vào hai địa danh nằm cách rất xa con đường Kinh sư: Một là Bến Cộ nằm ở thôn Tân Lương bên bờ Nam của dòng Thác Ma (thuộc xã Hải Chánh), đây là con bến được hình thành vào cuối thế kỷ XIX khi một nhóm cư dân từ Lương Điền đến Tân Lương khẩn khai lập ấp, tại đây vào năm 1914 có một nhà thờ được dựng nên, ngôi thánh đường này vẫn mang tên Bến cộ (Tân Lương) và tồn tại cho đến ngày nay. Hai là bến đò Cây Da, bến đò này nằm vào khúc cuối của dòng Ô Giang, thuộc thôn Diên Trường làng Diên Sanh (Hải Thọ), Nam giáp làng Trường Sanh (Hải Trường). Đông giáp dòng Ô Giang và Bắc giáp Hải Thành. Điều trùng hợp thú vị là ở đây cũng có ngôi thánh đường cổ được hình thành từ thế kỷ XIX.
Cứ cho rằng bến Cộ ở đây là bến đò và Cây Đa chính là bến đò Cây Da (phương ngữ) vẫn rất khó để lý giải về việc một cô gái làm nghề đưa đò phải mưu sinh trên một lộ trình xa xôi đến thế và cũng vô cùng khó hiểu khi chàng nho sinh kia đến Kinh thành lại không đi theo con đường Quan báo thênh thang (chỉ quá giang bến đò Hôm Lạng là đã qua đất Thừa Thiên) mà phải đi một chuyến đò vòng vo (từ bến đò Cây Da qua Diên Sanh, Trường Sanh, Hà Lộc, Lương Điền ngược dòng Ô Giang đến nguồn Thác Ma để ghé Tân Lương). Một lộ trình vừa bất hợp lý về thời gian (tuyến thủy lộ quá dài) kể cả không gian (không có tuyến đường nào vào kinh thành tại Tân Lương), ngoại trừ trường hợp chàng nho sinh này trên đường vào kinh ngẫu hứng muốn lặn lội đến xóm Càng (Cây Da) để câu cá và sau đó nhờ cô gái đưa đò chở về Tân Lương để ngắm non xanh nước biếc hay săn bắt thú rừng. Một giả thiết đặt ra: chàng nho sinh này là người gốc đạo ( Thiên chúa giáo) trên đường vào kinh muốn ghé hai giáo xứ kia để hành lễ thì nhà thờ Kẻ văn (thuộc làng Văn Quỹ, Hải Tân) là địa chỉ đáng đến hơn, vì trong thời gian này cả hai giáo xứ Cây Da, Bến Cộ đều không có linh mục và đều trực thuộc sự điều hành của cha quản hạt giáo xứ Kẻ Văn. (Phải đến năm 1904 giáo xứ Cây Da mới có linh mục và mười năm sau đến lượt giáo xứ Bến Cộ mới có đức cha cai quản.)
Việc đi tìm những địa danh, cội nguồn xuất xứ trong những sáng tác dân gian là điều không dễ dàng. Qua trích dẫn những sáng tác từ dòng văn chương truyền khẩu cho đến văn chương bác học có liên quan đến cụm từ cây đa bến nước con đò, cộng thêm tính không phù hợp khi đi tìm những bến đò gần kề trên cung đường nơi chàng nho sinh đi qua, chúng ta có quyền hồ nghi về tính xác thực của các địa danh liên quan đến câu chuyện và có thể nhận định rằng: bài thơ của chàng nho sinh kia chẳng qua là bài ca dao dị bản hiện đang lưu hành rộng rãi trên suốt chiều dài của mảnh đất Bắc Trung bộ.
Tuy nhiên cho dù những dòng sáng tác xa xót đầy bi thương trên xuất phát từ đâu thì câu chuyện tình trắc ẩn của cô gái đưa đò trên dong Ô Lâu vẫn là một chuyện tình đẹp luôn làm xốn xang những ai có dịp đến nơi này nhất là những người đang đi tìm những trầm tích văn hóa đang rầm rì chảy trên dòng sông quê hương.

20/10/2017
Khê Giang

No comments: