Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, November 29, 2014

Thơ Chu Vương Miện: ĐỂ LẠI, RA SÔNG



để lại

người về để lại một trái
tim ở không ta thử bóc ra
nhìn trân trọng ta bưng lên tận
mặt đây quà thân ái một lần
thăm trái tim na ná giống tim
heo lấm tấm còn vượng hạt máu
đào hai bên tâm nhĩ và tâm
thất nhìn hoài mà chả biết nói
sao trái tim ngăn hộc như thuốc
bắc cất dấu bao năm thịt phủ
mờ toàn chân dung những người kiệt
xuất tìm hoài chả thấy lũ phàm
phu trên cùng là ngôi nhà thờ
cổ Chúa trên thánh giá ngó thương
đau một xâu chuỗi hạt Mân Côi
cũ mân mê trong thế giới vạc
dầu gửi trái tim kiếp sau gặp
lại kiếp này Pắc Hủi ngó Lai
Châu vết son còn dấu vành ly
đó dạt về Ngô hay dạt sang Tiều?





ra sông

ừa thì con cá ra sông thân
yêu một khối trong lòng bơi theo
nhìn xong đổ nát chán phèo chạy
theo thì đã qua Lèo "Vân Nam "
chuyện xưa nhắc lại thêm nhàm trễ
đò trễ cả chợ Nam Đồng Lầm
quán chi mưa nắng vô chừng trai
khôn lấy vợ truyền giòng lứa đôi
chở nồi dùng để hong xôi nên
chi mới có trầu vôi cau già 
ừa thì người đã quên ta bỏ
lơ lai một cội hoa móng rồng
tàng tàng tát cạn biển đông nhìn
theo em đã theo chồng vu qui
tình ghơi có thủ có thì tiếng
la đầu xóm họa mi đầu cành
mình về đôi mắt vòng quanh áo
hoa quần lụa một vòng ngọc đeo
đường làng cũng chả cheo leo cá
ra sông cũng một lèo đi luôn 

chu vương miện



READ MORE - Thơ Chu Vương Miện: ĐỂ LẠI, RA SÔNG

Bút ký: MÙA THU NGOẠN CẢNH TÂY HỒ Nguyễn Hồng Trân


MÙA THU NGOẠN CẢNH TÂY HỒ
 Nguyễn Hồng Trân


Cũng khá lâu rồi vợ chồng chúng tôi chưa có dịp dạo quanh Tây Hồ. Trước đây chúng tôi đã từng sống ở Hà Nội nhiều năm trong thời kỳ học tập và công tác. Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, chúng tôi trở về quê hương Trị- Thiên để phục vụ công tác giáo dục và y tế cho đến ngày nghỉ hưu vẫn thường trú ở tp. Huế. Thỉnh thoảng chúng tôi mới có dịp ra Hà Nội thăm con cháu, thăm bà con và bạn bè thân quen…



Hiện nay, vợ chồng chúng tôi đã ra lại cư trú tại Hà nội theo đề nghị của con cháu muốn chăm sóc, phụng dưỡng ba mẹ lúc tuổi già ốm yếu…  Giờ đây, chúng tôi có thời gian rộng rãi để đi du ngoạn cảnh Tây Hồ vào một ngày thu yên lành thoải mái. Ngoạn cảnh nơi đây thật là thú vị. Cảnh mây trời, hồ nước mênh mông thoáng mát dễ chịu và đã làm cho chúng tôi nhớ lại những kỷ niệm xa xưa suốt một thời gian dài đáng nhớ của tuổi trẻ đã học tập và công tác tại Thủ đô Hà Nội.
Hồ Tây theo truyền thuyết ngày xưa có tên lúc đầu là Đầm Xác Cáo(1)  , sau đó có tên là Hồ Kim Ngưu(2) (Hồ Trâu Vàng). Đến Thế kỷ XVI thì đổi tên hồ thành Dâm Đàm (3). Và tên cuối cùng cho đến sau này hồ được đổi tên là Tây Hồ (4).
Để ngoạn cảnh Tây Hồ,trước tiên, chúng tôi đi dạo dọc con đường Thanh Niên mà ngày xưa gọi là đường Cổ Ngư. Đường này là ngăn cách Hồ Tây và Trúc Bạch. Hồ Trúc bạch ngày xưa cũng thuộc Hồ Tây, sau đó người ta đắp lên một con đê ngăn ra một vùng hồ nhỏ để nuôi cá và xung quanh hồ này trồng nhiều cây trúc để làm mành, làm rèm sáo che nắng, che mưa…Hồ Tây thì rất lớn (hơn 500 hecta và chu vi gần 18 Km), hồ Trúc Bạch thì nhỏ (chỉ vài chục hecta và chu vi chỉ hơn 6 Km). Hai bên con đường này những hàng cây xanh tỏa bóng râm xuống mặt đường thật mát mẻ dễ chịu. Từng đoạn, từng đoạn gần sát mép hồ đều có những chiếc ghế đá hướng ra mặt hồ để cho du khách dừng chân ngồi nghỉ ngơi, ngắm cảnh và chuyện trò tâm sự… Những chiếc ghế nơi đây cũng đã từng chứng kiến muôn vàn cuộc hẹn hò tình tứ của lứa đôi trai gái ở Hà Nội, trong đó có chúng tôi và những người nơi khác đến du chơi ngoạn cảnh Tây Hồ rồi lưu lại bên hồ trong cảnh chiều tà cho đến tận đêm khuya thanh vắng…
Chúng tôi dạo bộ trên đường này một lúc rồi ghé vào tham quan lại chùa Trấn Quốc mà đã lâu lắm rồi chúng tôi chưa có dịp ghé thăm. Đây là một trong những ngôi chùa cổ của Hà Nội đã có từ thời Lý –Trần và cách đây khoảng 1500 năm. Ngôi chùa rất đẹp, nó tọa lạc trên hòn đảo nhỏ phía Đông của hồ, có ngọn tháp cao xinh xắn màu nâu đỏ. Nơi đây du khách hàng ngày ra vào tham quan tấp nập. Các sinh viên các trường thường đến viếng cảnh chùa để cầu nguyện; nhất là sinh viên trường Nghệ thuật đến ngắm cảnh chùa và vẽ tranh hoặc sáng tác lời ca, khúc nhạc…
Đến chùa Trấn Quốc làm tôi nhớ đến một sự kiện ngày xưa từ thời chúng tôi còn là sinh viên đến tham quan chùa này vào dịp hè năm 1959 thì được gặp đoàn đại biểu của Chính phủ Ấn Độ sang thăm nước ta do Tổng thống  Rajendra Prasad dẫn đầu ghé vào thăm chùa cùng đi với Bác Hồ. Lúc đó Tổng thống Ấn Độ có tặng cho nhà chùa một cây bồ đề Ấn Độ rất đẹp. Cây bồ đề ấy giờ đây đã sum xuê to lớn tỏa bóng mát cho cả một vùng rộng của sân chùa.
Chúng tôi đứng ở sân chùa nhìn ra Hồ Tây nước mênh mông xanh biếc và làn sóng lăn tăn vỗ nhẹ vào các thành kè ven hồ nghe rất êm ái thanh bình. Nhìn xa xa giữa mặt hồ có nhiều tàu thuyền qua lại chở du khách dạo chơi đây đó tham quan những di tích, thắng cảnh ven hồ như đền Quán Thánh, cung Từ Hoa, chùa Kim Liên, điện Thụy Chương, phủ Tây Hồ…
Trên dọc đường đi ven bờ Hồ Tây, chúng tôi nghe vang vọng những bài ca, khúc nhạc du dương, trữ tình, trầm bổng trong chiều đông ấm áp. Lúc đó chúng tôi bỗng nhớ đến mấy câu ca dao ngày xưa quen thuộc:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Tiếp đó chúng tôi đi ngược lên phía làng Kẻ Bưởi (ngày xưa có tên là Yên Thái), nơi đây là cái nôi làng nghề làm giấy dó nổi tiếng, nhưng dân làng rất vất vả, người dân phải đi lấy cây dó trên rừng về, phải chặt khúc rồi dã nhỏ bằng cối chày cả ngày đêm mới kịp làm giấy. Có loại giấy quý làng này làm ra được dùng cho nhà vua ban Sắc phong cho các làng xã, tộc phái có sự kiện điển tích về lịch sử, văn hóa đáng được tôn vinh, trân trọng.
Sau khi ra khỏi làng này, chúng tôi lên thuyền du lịch đi về Phủ Tây Hồ(5) để viếng thăm, ngắm cảnh một địa danh linh thiêng của Thăng Long Hà Nội. Phủ Tây Hồ nằm trên một bán đảo nhô ra giữa Hồ Tây, ngày xưa nó thuộc một làng cổ của kinh thành Thăng Long. Chúng tôi đến Phủ Tây Hồ không phải vào dịp lễ hội thường niên vào ngày rằm tháng Giêng nhưng dân chúng đến hành hương và tham quan cũng rất đông. Chúng tôi đi dạo khắp vùng này và thấy người ta đến đốt vàng mả, hương trầm khói lên nghi ngút lan tỏa khắp cả vòm cây, mái ngói. Phủ Tây Hồ còn mang đậm nét cổ xưa ở các điện thờ, đền miếu… Nhất là quang cảnh xung quanh Phủ rất uy nghi, trầm tĩnh. Những cây si, cây sung, cây lộc vừng cổ thụ nghiêng mình sà thân cành gần sát mặt nước Hồ Tây tạo nên một dáng vẻ cổ kính linh thiêng. Đứng trong khung cảnh này, tôi cảm hứng làm mấy câu thơ với tựa đề:
CẢM CẢNH TÂY HỒ
Nước Tây Hồ mênh mông xanh biếc
Thuyền ngày đêm liên tiếp du chơi
Đàn chim bay liệng ngang trời
Như vui với cảnh cùng người tham quan
Đường ven hồ rộn ràng du khách
Tới đền chùa tấp nập hành hương
Người từ khắp cả bốn phương
Về đầy cầu nguyện an đường sinh linh…
Trời về chiều, chúng tôi lên thuyền ra giữa Hồ Tây rồi hướng về phía làng Thụy Khê để ngắm cảnh chiều hôm ở một vùng quê ven hồ. Lúc đó trên bầu trời Tây Hồ những đàn chim đang bay chầm chậm thành hàng như hẹn nhau trở về tổ. Bỗng nhiên có một cơn gió mạnh thổi qua làm thuyền chở chúng tôi rung rinh, chồng chềnh, cánh buồm nghiêng ngả và thấy đàn chim trên trời cũng hối hả bay nhanh. Thế là tự nhiên trong lòng tôi cảm thấy lo lo, sợ một cơn lốc đột ngột sẽ lật thuyền như chuyện chìm thuyền của đoàn nghệ thuật Trung Quốc: “Tề tề Cáp nhĩ”  khi chiều tối dạo chơi trên Hồ Tây vào đêm 11-9-1956. Các cụ già hồi đó ở gần Hồ Tây đã kể lại rằng, đoàn thuyền chở đoàn nghệ thuật TQ vừa ra đến giữa Hồ Tây thì đột ngột có một cơn lốc mạnh hất tung cả đoàn xuống hồ. Lúc ấy mọi người hốt hoảng không ngờ việc thiên tai ập đến bất ngờ cho đoàn TQ như thế. Đội cấp cứu đã tích cực cứu nạn được một số người, trong đó có cô Khương Nãi Tuệ là nữ nghệ sĩ múa có tiếng của TQ (đóng vai nữ chúa trong điệu múa Hoa sen) và một tay sáo danh tiếng là Phùng Tử Tồn, còn 9 người TQ mất tích. Mặc dù đã chăng lưới tìm kiếm cả đêm, nhưng vẫn không thấy. Hôm sau mới tìm được thi thể của 9 cô gái chưa chồng trong đoàn múa hoa sen của TQ đã bị chết trong đêm hôm ấy. Thật là một chuyện chưa từng xẩy ra ở Hồ Tây từ xưa đến nay như thế!
Sau cơn gió mạnh thổi qua, chúng tôi đang ngồi trên thuyền mà vẫn không lo, cứ ung dung chuyện trò vui vẻ. Nhìn về phía gần bờ làng Thụy Khê có mấy chiếc thuyền nan có những người trên thuyền và dưới nước để vớt rong, mò ốc, bắt cá… cứ râm ran chuyện làm ăn kinh tế. Đặc biệt ở Hồ Tây người ta nuôi loài tôm càng xanh rất phát triển và đem lại nguồn lợi kinh tế khá cao. Trước đây, hàng năm người nuôi tôm càng xanh thu hoạch đến 40 tấn/ năm.  Qua thực tế ẩm thực, chúng tôi cũng biết về các loài cá, loài ốc và tôm ở Tây Hồ rất ngon. Vì thế một số hàng quán nhậu ở ven bờ với các món cá hấp, cá chiên, bún ốc, bánh tôm, v.v…lúc nào cũng đông khách thưởng thức. Ngoài ra, những người sống ven hồ còn cho biết thêm rằng, có một số tổ chức nuôi trồng sinh vật hồ đang nuôi loài cá hồi và nuôi trai lấy ngọc. Điều đó có nhiều hy vọng phát triển nghề nuôi thủy sản ở Tây Hồ được ổn định và bền vững, nếu chúng ta có biện pháp bảo vệ môi trường được tốt, không bị ô nhiễm nặng triền miên.
Sau khi rời khỏi thuyền lên bờ, chúng tôi đi bách bộ một đoạn quanh bờ hồ. Quang cảnh ở đây đã khác nhiều so với ngày xưa. Những hàng cây cau Tây, phượng vĩ, bằng lăng, hoa sữa … như thích thú với đất trời, hồ nước xanh trong và cứ thi nhau vươn mình lung lay thân cành trong gió chiều lộng mát.
Đi một lúc ngắm nhìn đó đây thư giãn tâm hồn, chúng tôi dừng chân ngồi lên ghế đá nhìn ra mặt hồ và hít thở không khí trong lành rồi cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa vào cái thời trẻ trung của cuộc đời sinh viên đã từng đi dạo quanh Tây Hồ với bao nhiêu tâm tình, ước vọng…
Ôi! Mùa thu ngoạn cảnh Tây Hồ thật là thú vị và vấn vương, thương nhớ bung lung, nhớ cảnh vật, nhớ tình người, nhớ hoài! nhớ mãi!..
        Hà Nội, Quý thu, năm Giáp Ngọ = 2014


Chú thích: (1) Đầm Xá Cáo: Theo truyền thuyết là nơi đây hang con cáo chín đuôi thường phá hại dân lành, bị Long Quân dâng nước lên công phá, giết chết con cáo đó và xác cáo phơi trên mặt đầm (đầm là vùng trũng có nước và có cả bùn lầy, lau sậy mọc um tùm).
(2) Hồ Kim Ngưu dựa theo truyền thuyết hồ Trâu Vàng. Truyện kể về một người khổng lồ ở đất Việt, sức khỏe phi thường, không ai địch nổi. Ông xuất gia làm thiền sư, đó chính là thiền sư Minh Không. Thiền sư Minh Không sang Tàu chữa bệnh cho con vua Tống. Khi công việc hoàn thành, vua muốn trả ơn. Nhà sư chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Vua Tàu đồng ý cho thiền sư tự ý vào kho lấy đồng. Thiền sư đã lấy đồng đen đem về nước Nam. Về đến Thăng Long, ông dùng số đồng đó đúc thành bốn thứ bảo khí nhà Phật: Tượng Phật, tháp Báo Thiên, đỉnh đồng và một quả chuông đồng rất lớn. Chuông đúc xong, đức vua sai ông đánh một hồi chuông dài để báo hiệu cho dân chúng biết tin vui nước nhà đang thái bình thịnh trị! Tiếng chuông ngân đến tận kinh đô bên Tàu. Nghe tiếng chuông con trâu bằng vàng to lớn nằm trước kho đồng bên Tàu tự dưng bừng tỉnh "Đồng đen là mẹ của vàng" ngỡ là tiếng mẹ gọi nó liền vươn mình phóng thẳng xuống phương Nam tìm đến quả chuông khổng lồ, quần mãi xung quanh khiến cho cả một vùng đất lớn quanh quả chuông sụt xuống thành một vùng hố sâu và nước tràn đầy trải rộng thành một hồ nước mênh mông.
(3) Dâm Đàm: Theo sách Hồn sử Việt thì khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, hồ Kim Ngưu trở thành một địa điểm du ngoại được nhà vua và các quan ưa thích, nhiều lần trong các buổi du thuyền trên hồ, nhà vua gặp sương mù bao phủ, cảnh tượng hồ trở nêm huyền ảo mộng mơ, vì vậy hồ đã được đổi tên là Dâm Đàm.
(4)Tây Hồ: Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ. Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo chữ nghĩa  Trung Quốc là chuyện bình thường. Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của hồ Tây, và hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.
(5)Phủ Tây Hồ:nơi đây ngày xưa có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hoá rồi tôn vinh lên thành đức Thánh Mẫu . Hàng năm vào rằm tháng Giêng âm lịch, khách hành hương về đây rất đông, vừa đi lễ cầu mong Thánh Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn; vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ.





READ MORE - Bút ký: MÙA THU NGOẠN CẢNH TÂY HỒ Nguyễn Hồng Trân

EM ĐI - thơ Bình Địa Mộc





EM ĐI

em đi thong thả em đi
coi như chưa biết chưa gì với nhau
mai này kẻ trước người sau
biết đâu cũng một chuyến tàu thời gian

nói chi lời nói phủ phàng
giận hờn chi cũng hai hàng lệ rơi
tiễn em tôi bước chân rời
chỗ hôm qua đứng mùng tơi thõng thuồng

đêm về tựa cửa rèm buông
hai bàn tay nhúng nỗi buồn đặc queo
ngoài sân lủng lẵng trăng treo
bóng cây mít sửng sờ neo gốc già

em đi đường chắc còn xa
còn hăm hẳm phía người ta mệt nhoài
câu thơ bờ bợt sông ngoài
biết đâu sóng vẫn còn hoài bờ xanh …

Quảng Nam, 11.2014

Bình Địa Mộc
READ MORE - EM ĐI - thơ Bình Địa Mộc

THÁNG CHẠP - thơ Trúc Thanh Tâm



THÁNG CHẠP

Rất khẽ mùa yêu lên tiếng gọi
Rớt xuống quanh đời hạt nắng trong
Nói thương nào biết yêu có dễ
Áo lụa em về một sớm đông

Ta qua phố cũ nhiều kỷ niệm
Một thời để nhớ một thời xa
Những đáng yêu nào ta bắt gặp
Má em hồng có phải vì ta

Tháng chạp bỗng nhiên tình tứ quá
Mấy ngõ hồn ta lên tiếng reo
Da em trắng mọng trời mơ ước
Mơn trớn lòng ta một nét yêu

Trăm năm mộng gởi vào mơ ước
Đời cứ bồng bềnh mây trắng bay
Thời gian chầm chậm qua lối hẹn
Len lén xuân về em có hay !


TRÚC THANH TÂM
READ MORE - THÁNG CHẠP - thơ Trúc Thanh Tâm

LOẠN BÀN VỀ CHỮ TỬ - Chu Vương Miện

Tác giả Chu Vương Miện


LOẠN BÀN VỀ CHỮ TỬ
Chu Vương Miện

Toàn về nhà gặp Dung đang ngồi lẩm nhẩm đọc cái gì đó mà miệng thì cười toe toét. Tòan hỏi:
-Đọc gì mà vui vậy?
Dung khoe:
-Anh nghe nè, họ nói về những câu có chữ Tử buồn cười lắm nghe nha:
Đang mạnh khoẻ mà chết gọi là Mạnh Tử.
Chết già gọi là Lão Tử.
Người to con mà chết gọi là Khổng Tử.
Chết mà bị dời tới dời lui gọi là Du Tử.
Chết ở sông gọi là Giang Tử.
Bị lạnh chết gọi là Hàn Mạc Tử.
Cung nữ mà chết gọi là Tử Cung.
Chết trong chùa gọi à Tự Tử.
Chết một cách lãng xẹt gọi à Lãng Tử.
Bị chấy rận cắn chết là Chí Tử.
Điện dựt chết là Điện Tử.
Cha chết là Phụ Tử.
Mẹ chết là Mẫu Tử.
Em chết là Đệ Tử.
Vợ chết gọi là Thê Tử.
Thầy giáo chết gọi là Sư Tử.
Học trò chết gọi là Sĩ Tử.
Quâ lính chêt gọi là Quân Tử.
Bị đánh bầm dập mà chết gọi là Nhừ Tử.
Chết mà bị chặt ra từng khúc gọi là Thái Tử.
Chết trong khi đi toilet gọi là Tiểu Tử.
[Trích trong truyện ngắn MƯU KẾ của nhà văn nữ DIỄM CHÂU đăng trong tuần san Người Đưa Tin trang 64 ] ra ngày 24 tháng 1 năm 2014 .]

*
Còn bây giờ là thuộc về phần của tại hạ, nước sông không phạm nước giếng, ai viết phần đó.
1/Loại Triết Gia:
- Mạc Tử là chết trong đen tối và lạnh lẽo.
-Tuân Tử là chết theo khẩu dụ của nhà vua "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung".
- Liệt Tử là bại liệt rồi thác luôn.
-Dương Tử là sung quá rồi phát khùng mà thác.
-Tử Lộ chết lộ thiên không cần chôn cất.
-Tôn Võ Tử là ông Tỏ nghành Võ khi chết nằm trong quan tài bằng gỗ bên ngoài vỏ bọc bằn Tôn.
2 /Loại Văn Thi Gia Ta Tàu.
-Chung Tử Kỳ là ván cờ chết ? bó tay chung tiền cho người ta rồi về.
-Giang Tử là không biết bơi chết đưối dưới sông.
-Hà Liên Tử thi sĩ miền Nam tác giả tập thơ duy nhất Tiếng Bên Trời.
-Hàn Mạc Tử thi sĩ chêt chôn ở Ghềnh Ráng ngay trươc cổng quận Hiếu Nhơn Quy Nhơn.
-Lốc Cốc Tử là anh hành nghề đấm bóp gọi nôm là "đánh tẩm quất".
-Chu Tử là chết trên thuyền bè.
-Lão Đầu Tử là nhân vật hắc đạo trong pho truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ và cũng là biệt danh của vua Càn Long khi du Giang Nam.
-Kỳ Hoa Tử là bút hiệu khác của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.
-Tô Dương Tử là nhà văn nhà giáo bạn thâm giao với thi sĩ Song Nhị.
-Trần Tử Ngang chết nằm ngang như cua.
3/ Tên của những vị nổi danh thiên hạ.
- Âu Giả Tử la người nước Ngô có công đúc một lúc ba thanh kiếm Long Tuyền thái a , Mạc Tà và Ngư Trường Trảm Lư.
-A Tử là nhân vật trong Lục Mạch Thần Kiếm em của A Châu chị của A Tuất [ con gái của Đoàn Chính Thuần.
-Ngụy Quân Tử la mỹ danh quần hùng tặng cho Nhạc Bất Quần chưởng môn Kiếm phái Hoa Sơn.
-Tử Hà Thần Công là là tuyệt chiêu của phái Khí Tông do Nhạc bất quần bảo qủan.
-Hồn Du Tử là bản nhạc thời tiền chiến "chiều nay biết về nơi đâu ? dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu".
-Trần Tử Oai vị tướng được đặc trách Diệt Trừ Sốt Rét của nền Đệ nhất Cộng Hòa.
-Sinh vi tướng Tử vi thần là điều tự phong của tướng Đỗ Mậu khi bị ra rìa.
-Nhất dạ lục giao sinh Ngũ Tử là tuyệt chiêu của vua Minh Mạng triều đại nhà Nguyễn.
-Ngũ Tử Tư là bị chết trong trường hơp tứ mã phanh thây.
4/ Những chữ thông dụng.
- Sinh Ký Tử Qui. sống thì lanh lợi như ngựa kỳ ngựa ký
còn chết tì chậm rãi như con rùa.
-Núi Yên Tử là chỗ tu hành của cac vua nhà Trần sau khi về hưu . dướ chân núi có lính canh gác, người chết không bị ai quấy phá .
-Tiền Tử Tuất là tiền chết vì công vụ lãnh chỉ 1 lần còn Tuất thì cứ 1 qúy 3 thánghay 1 năm lãnh 1 lần.
-Tử hỉnh là trước khi chết được chụp hình kỷ niệm với đao phủ thủ .
-Tử thù là chêt rồi còn thù.
-Tử Thi là thi sĩ chết cạnh bài thơ của mình.
-Tử Thương là bị thương rời thác.
-Tử Tước là một trong 5 tước "công hầu bá tử nam"
- Tử tội là tự mình chết.
-Hoa miễn tử là hoa khô.
-Bất tử là sống mãi chưa chết
-Bất đắc kỳ tử là chết bất thình lình không báo trước.
-Tử chiến là chết còn uýnh.
-Tử Trận là hết uýnh.
-Phù dung tiên tử là bạn thân của giới hít tô phe.
-Phu Tử là cu li porter khuân vác nặng quá chiu không thấu lăn quay ra mà chết.
-Tòng Tử là bằng hữu thương tâm quá lăn ra mà chết theo ? cho có bạn.
-Đạn mã tử là đạn chuyên dùng để bắn ngựa.
-Đồng tử là chết ngoài cánh đồng.
-Tự tử là ngôi chùa không có ai vãng lai, ngôi chùa chết.
-Mộc Tử là cây thiếu nước.
-Tử Khí là nằm chết mà còn hơi thở.
-Đột Tử là con khì Đột trong sớ thú chết.
-Tử Vi là hành động của kẻ chết.
Thập tử nhất sinh là 10 chết 1 sống tức là gần đi đoong.
-Sinh Lão bệnh Tử là lý thuyết của Phật Gia.
-Gốc Tử là cây Thị [tiếng cổ]
-Tử địa là nhị tỳ để tróng đất cho các người còn tại thế ?

                                                       Chu Vương Miện
READ MORE - LOẠN BÀN VỀ CHỮ TỬ - Chu Vương Miện

NHƯ CÁNH CHIM BUỒN - Hoàng Anh 79




NHƯ CÁNH CHIM BUỒN

Em bỏ cả trời mơ ước xưa
Có hay nắng tắt chuyển sang mùa
Tóc thề em thả qua sông rộng
Còn nhớ đường về trong gió mưa.

Ta đã xa thời yêu dấu yêu
Hàng cây trút lá đổ muôn chiều
Đèn treo phố nhỏ vàng nhung nhớ
Trăng ngủ bên đồi cỏ quạnh hiu.

Về đây cảnh cũ sầu quanh quẩn
Đêm vắng mình ta mộ khúc buồn
Đường sinh tử gập ghềnh muôn thuở
Rượu cạn bầu say thương nhớ thương.

Mấy nẻo đường mây khói nhạt nhòa
Rồi trời đất cũng lãng quên ta
Tình thơm một thuở là nhau mãi
Để đến bây giờ xa rất xa.

Mưa ở xứ người em có lạnh
Áo xưa còn giữ một mùi hương
Giang hồ ta bước chân phiêu lãng
Như cánh chim buồn lạc giữa sương!

Ngày 27/11/2014
Hoàng Anh 79

Họ và Tên: Hồ Mạnh Phi Hùng
Bút Danh: Hoàng Anh 79.
Năm sinh: 14/09/1973.
Địa chỉ mail: homanhphihung.mt@gmail.com
Blog : hoanganh79.blogspot.com
Điện Thoại: 0918.974.522

Địa chỉ nhà : 1S5 lầu 1, Lương Văn Can, Chung cư Bình Khánh, P. Bình Khánh, Long Xuyên, An Giang.
READ MORE - NHƯ CÁNH CHIM BUỒN - Hoàng Anh 79

Friday, November 28, 2014

TIẾNG TƠ - Nguyễn Thị Thuý Ngân


                Tác giả Thuý Ngân


                                   TIẾNG TƠ 
                                                            Nguyễn Thị Thuý Ngân

    Đêm đã ngủ rất sâu, mảnh trăng cuối tuần như chiếc lá khô vàng vọt rơi lơ lửng cuối trời xa. Màn đêm đen thăm thẳm, quầng sáng mong manh xót lại,  sao mà thấy cô đơn chi lạ.  Dù biết xung quanh vẫn vạn ngàn ánh mắt tinh tú vây quanh, như bỡn cợt, lẫn chiêm ngưỡng. Trăng cô đơn? Hay nỗi lòng ta cô đơn? Chị thầm hỏi – “ Tại sao? Đã bao năm qua chị vẫn không quên được anh. Hay chính chị, đem anh ra làm tấm chắn vững chắc để sống, để ngăn cản mọi ý tưởng viễn vông chợt đến. Ngăn luôn những bước chân chuẩn bị đi hoang, cả những bàn tay vô tình hay cố ý muốn đưa ra - nâng đỡ…” Chị đã bám víu lấy hình ảnh anh để sống trọn với câu nguyện ước của mình. Chị đã đi gần hết cuộc đời…
  Không khí trong phòng thật ngột ngạt. Không phải do đang mùa hè, mà cái ngột ngạt từ trong tim chị ngấm ngầm tỏa ra, mênh mang. Giấc ngủ đầy mệt mỏi lẫn trăn trở bao đêm không tròn. Chị không dám trở mình, sợ gây ra tiếng động làm các con thức giấc. Hoặc là mấy đứa nhỏ lại biết chị đang trong cơn đau. Chị không muốn các con lo lắng – “ Mai chúng còn phải đi làm”. Chị nhủ thầm và khe khẽ trở dậy, mở cửa ra ngoài. Hơi sương lành lạnh, chiếc bàn  kê dưới bụi dừa  trước sân, mặt bàn sương khuya đã ươn ướt. Chị ngồi đối diện với lòng mình và nỗi nhớ về một người – Không phải anh (!)


- Em đau sao không cho anh biết..? Tiếng người đàn ông thầm thì đầy lo âu như trách móc.
- Em không muốn anh lo lắng, hơn nữa lại càng không muốn làm phiền. Anh cũng bận rộn nhiều. Anh khỏe không? Chị hỏi lại.
- Sao em cứ phải dối lòng mình như thế. Em không nhận ra tình yêu của anh sao? Hay… Chị nắm bàn tay anh bóp nhẹ như không muốn cho anh nói tiếp.
- Em hiểu lòng anh, cám ơn tình cảm của anh đã dành cho em bấy lâu nay. Anh biết đấy: “Em không phải là người đàn bà khỏe mạnh, gánh nặng gia đình này, em không thể đổ lên vai anh…mặc dù nó được  chống đỡ bằng TÌNH YÊU, hayTÌNH BẠN của anh. Hoàn cảnh của hai ta có phần giống nhau, nên dễ dàng thông cảm và sẻ chia… Nhưng không thể”. Chị nói lý do. Chị không dám nhìn thẳng vào mắt anh – Chị sợ - Giọng nhẹ nhàng chùng xuống như có nước. Chị ôm bụng dằn lại cơn đau đang chực bung ra.
- Anh hiểu em nói gì, xong anh vẫn muốn làm người luôn bên em khi em cần. Em nghỉ ngơi đi. Người đàn ông định nói tiếp - nhưng thấy sắc mặt chị xanh xao nên ngừng lại…. Bàn tay người lần tìm tay chị, nhưng chị lại cố tình giấu nó dưới chiếc chăn. Bàn tay buông xuôi, vô định!


    Chị nhớ lại chuyện mấy ngày vừa qua ở bệnh viện. Chị thầm cám ơn người đàn ông đã cho chị một tình bạn thật ấm áp. Không! phải nói chính xác là tình yêu đúng hơn. Chị thấy tim mình có một chút xôn xao, hồi hộp khi nhìn thấy ánh mắt đầy yêu thương nhắn gửi, cả đôi tay mạnh mẽ đỡ chị trong từng cơn đau. Chị cũng muốn nũng nịu tí xíu, vòi vĩnh tí xíu, mà đã có lần chị đã định ngã vào vai người ấy rồi đó sao…Bất giác, Chị đưa bàn tay thô ráp sờ lên má mình nóng hâm hấp. Chị thẹn thùng quay đi - khi vô tình con gái bắt gặp chị với người ấy nói chuyện: “ Mình già rồi mà còn… ta đâu còn trẻ hay khỏe mạnh – chị lại thở dài. Giá mà mình…”. Có lẽ chị cũng đang tự vẫn lại lòng mình. Nhưng thôi, chị cố xua đi những ý nghĩ, những hình ảnh cứ lởn vởn trong đầu.  Chị thầm cám ơn anh, cám ơn sự cảm thông của các con. Trong tận cùng tâm khảm chị muốn được hưởng tình yêu bình dị như bao người khác. Song song với nỗi khát khao, chị lại thấy như vừa làm điều đó gì phạm lỗi với anh. Cắm mấy nén nhang lên bàn, ánh mắt anh vừa buồn vừa thương, nửa khuyến khích, nửa như giận dỗi - Lạ thật. Đang đắm mình suy nghĩ với đủ thứ hư ảo, chợt tiếng rao lảnh lót vang lên: “ Ai bắp hầm…ơ..ơ…” của người bán hàng rong trong đêm nghe hụt hẫng, tiếng rao vừa lạc lõng, vừa mệt mỏi lẫn xót xa cho cuộc mưu sinh. Tiếng rao xé toạc màn đêm, xé toạc lòng chị. Chị bần thần đi đến bên hàng rào nhìn theo dáng người phụ nữ đổ dài dưới ánh đèn. Người đàn bà dưới đường phố khuya khoắt cũng là hình ảnh của chị năm nào.
      xa một quầng sáng đang hé. Một ngày mới đang bắt đầu.

   Tiếng chuông điện thoại đổ dồn như cáu bẳn điều vô cớ. Chị bắt máy:
- A-lô, tôi …Chị chưa nói dứt lời đầu bên kia đã chen vào.
- Cô, hả cô - Con đây. Con gặp cô bây giờ được không? Tiếng con bé Hương gấp gáp.
- Có chuyện gì cuống lên vậy Hương? Bên nhà có chuyện gì sao cháu. Chị hỏi mà lòng thấp thỏm lo – rồi tiếp luôn: “ Được, cháu sang cô, hay cô đến chỗ cháu cho tiện”.
- Vậy Cô và Cháu sẽ gặp nhau chỗ cũ nhé – Bé Hương hẹn hò.
-  Được, cô tới ngay. Chị nhận lời và vội dắt xe ra khỏi cơ quan.
   Phòng đọc của thư viện nơi chị và bé Hương quen nhau. Những lúc rãnh rỗi chị hay vào thư viện ngồi đọc sách. Lần ấy đang mơ màng với đoạn văn hay, chị bất ngờ ngước lên chạm phải ánh mắt rưng rưng của con bé. Đôi mắt trong veo, rất đẹp nhưng buồn. Chị và bé Hương là đôi bạn thân một thời gian. Rồi sau đó, chị bị biến thành kẻ thù của con bé. Chị tìm chỗ và ngồi đợi.-         Con chào cô – Bé Hương lên tiếng.
- Chào con, Có việc gì mà gọi cô ra đây giờ này. Chị thắc mắc hỏi
- Cô …cô.. Nó ấp úng không biết mở đầu từ đâu.
- Không sao, cứ từ từ nói cô nghe. Chị lấy tay vuốt nhẹ lên mái tóc óng mượt của con bé như khích lệ.
  
    Nó nhìn Chị một lát rồi hắng giọng như lấy hết can đảm nói: “Cô, cô có thật sự còn  thương Ba con không”? Con bé nhìn chị chờ đợi…
- Nhưng sao con lại đường đột hỏi cô chuyện đó? Chị ngạc nhiên hỏi lại.
- Ba con.. ba con đang quen với một người đàn bà khác. Người ấy, con có gặp đôi lần. Ba con không yêu người ấy mà chỉ muốn lấp khoảng trống trong lòng mà thôi. Ba con đã khổ nhiều rồi, từ khi mẹ con mất đi. Con biết ba sống vì các con, Ba lo cho tụi con chu đáo từ giấc ngủ đến chén cơm. Nghĩa ơn đó chị em con không bao giờ quên được. Đến bây giờ tụi con mới hiểu được nỗi lòng Ba. Thật lòng, tụi con cũng muốn ba con sống hạnh phúc như một người bình thường. Có một người phụ nữ cho riêng mình để yêu và được yêu thương. Những đêm Ba trăn trở làm con cũng vô cùng áy náy. Nếu thời gian quay lại mười năm trước, nếu con không ngăn cản Ba đến với Cô. Có lẽ Ba con đã không sống thầm lặng suốt thời gian vừa qua. Lúc ấy con nhỏ quá. Con không muốn ai dành mất Ba của con. Dạo đó sao con lại ghét Cô đến thế? Con ghét luôn những lần cô đem cháo cho con khi con bệnh, ghét luôn những câu hát ru buồn, mỗi khi cô cất tiếng: “ Ầu ơ…ơ ví dầu..cầu ván đóng đinh.. Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó…đi..” Hay: “ Gió mùa thu mẹ ru con ngủ…Năm canh chày…Mẹ thức vừa năm…” Nó hát lại câu hát xưa và nói một hơi dài. Nước mắt lã chã trên khuôn mặt nhỏ nhắn, thanh tú. Nó nói tiếp: “ Mấy hôm trước con vô tình đọc được quyển nhật ký của Ba. Con biết Ba vẫn thương cô như ngày nào, và con đã hiểu lý do tại sao cô từ chối tình yêu của Ông. Cô vẫn yêu chú ấy, như ba vẫn yêu mẹ dù tình yêu đó đã thuộc quá khứ…
- Ôi con gái tôi, con đã trưởng thành rồi. Chị ôm con bé vào lòng, nước mắt hai cô cháu hòa vào nhau mằn mặn.
-  Con gái à, Chuyện riêng của ba con hãy để ông ấy tự quyết định. Còn chị em con thực sự muốn ba con hạnh phúc thì hãy ngoan ngoãn, sống thật tốt cho ba con yên tâm. Mặt khác, các con nên yêu thương, gần gũi chăm lo, cảm thông với ông ấy nhiều hơn. Ba con sẽ không cảm thấy trống vắng tình cảm khi tuổi đã cao, một mai cũng không còn khỏe nữa. Hãy nói những lời từ trái tim con mách bảo. Nếu Ba tìm được người phụ nữ mà cả hai thật sự muốn xây dựng một gia đình toàn vẹn, thì các con sẽ ủng hộ ông ấy. Còn nếu vì một sự thiếu thốn, cô đơn mà lại vội vã quyết định rồi dẫn đến sai lầm. Biết đâu lại đau khổ hơn, ray rứt, ân hận quá muộn màng con ạ. Riêng với cô – Cô rất trân trọng tình cảm của ba con. Ông là một người  bạn tốt. Một người cha tốt. Ông ấy rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc sau khi đã hy sinh cả một quãng đời cho con cái. Như con đã biết qua nhật ký ba con - Cô vẫn yêu Chú nên cô không muốn dối gạt lòng mình, dối gạt tình cảm của ba con. Cô không thể gượng ép trong tình cảm. Cái kết rồi cũng sẽ chia tay thôi. Như thế cô sẽ trở thành người có lỗi. Ngoài tình yêu đôi lứa, Cô nghĩ còn nhiều tình cảm khác cũng rất đáng quý, đáng trân trọng: “ta hãy yêu thương con cái, người thân, bạn bè và cả những người xung quanh ta. Đó cũng là một hạnh phúc…”.
    Chia tay bé Hương khi thành phố đã lên đèn. Chị ghé vào tiệm ăn bên đường mua hai phần ăn thiệt ngon. Một phần chị đưa con bé bảo nó mang về cho ba và em. Một phần Chị dành cho những đứa con của chị. Hạnh phúc chẳng ở đâu xa, chỉ cách ta một gang tay thôi. Chị hòa vào dòng người thấy lòng mình thật thư thái.
                                                                                   Thúy Ngân
READ MORE - TIẾNG TƠ - Nguyễn Thị Thuý Ngân

Thursday, November 27, 2014

ĐỌC TẬP THƠ “CHUYỆN BÊN ĐỜI” CỦA HOÀNG YÊN LINH - Châu Thạch






ĐỌC TẬP THƠ “CHUYỆN BÊN ĐỜI”
CỦA HOÀNG YÊN LINH
Châu Thạch

Hoàng Yên Linh: Cái bút hiệu đẹp như rừng hoa dưới nắng nhưng đọc thơ của anh thì giống như ngắm xem rừng hoa dưới sương lạnh lẽo.
“ Chuyện Bên Đời” của Hoàng Yên Linh vừa xuất bản là tập thơ giãi bày tâm trạng không chỉ riêng cho tác giả mà hầu như cho cả lớp người “Tôi lên rừng từ dạo tàn cuộc chiến/ Đêm nằm mơ ruộng lúa với đồng bằng” ( Hoa Cà Phê) và “Có người qua cuộc chiến chinh/ Nửa đời còn lại điêu linh cuối đời” ( Chuyện Chúng Mình). Do đó tập thơ “Chuyện Bên Đời” của Hoàng Yên Linh là sự cô đọng của nỗi buồn, là vết hằng sâu khắc khỏi, là tâm tư u uẩn như bí mật của đại ngàn. Tâm sự ấy được giãi bày qua suốt tập thơ với nhiều chủ đề khác nhau mà người viết bài nầy tạm thời phân ra hai mục chính để dễ dàng hiểu thấu đáo tiếng thơ trong lòng thi sĩ.
Nỗi nhớ quê hương:
Quê hương đã trở thành cố hương với tác giả. Cố hương đã ray rức trong lòng Hoàng Yên Linh vì thương nhớ. Cố hương nắng cháy mưa dầm kia đã làm cho tác giả cảm thấy già thêm trong mong đợi quay về:
Tôi sẽ về Quảng Trị cố hương ơi
Đời xa cách đã già thêm mong đợi
Tôi sẽ về bước chân mòn gối mỏi
Dẫu đời tôi héo úa tàn phai
                (Tôi sẽ về Quảng Trị ơi!)
Mong ước quay về thôi thúc trong lòng tác giả bởi vì đã quá lâu ngày anh biền biệt với quê hương:
Một ly nầy ngẫm đời trôi dạt
Ba mươi năm lưu lạc xứ người
Cố hương ơi chìm trong đáy mắt
Đêm ngậm ngùi dĩ vãng mù khơi
                                    (Độc Ẩm)
Suốt tập thơ “Chuyện bên Đời”, những bài thơ như “Tình Quê”, “ Tình người Quảng Trị bên chiều Cao nguyên”, “Gởi người Quảng Trị’…hiển hiện tình yêu nỗi thương nhớ cố hương quặn thắt trong lòng tác giả. Nỗi nhớ đó có niềm đau đặc biệt vì nó không phải của con người thành công nơi xứ khác hay của người đang cư ngụ nơi chốn phồn hoa đô hội mà là của một tâm hồn đầy chất thơ lưu lạc, cô đơn nơi rừng núi hắt hiu. Nỗi nhớ đó biến thành thơ cho nên mỗi bài thơ như một cành hoa hương sắc  nở ra dưới bầu trời lạnh lẽo.
Âm hưởng của thơ hoà nhập tính khắc khổ của  quê hương Quảng Trị cùng với nỗi quạnh hiu xa vắng nơi rừng sâu hẻo lánh của chốn định cư, gia thêm vào đó hương thơm của một tâm hồn đầy lãng mạng làm se lòng người thưởng thức nó. Nỗi nhớ cố hương da diết trong lòng Hoàng Yên Linh có khi được anh diễn tả như mình trở thành một chữ “KHÔNG” trong bức tranh mênh mang của trời đất:
Biết tình còn nặng tương tư
Để ai ngóng mãi lá thu reo vàng
Quán cà phê đời lang thang
Trông vời cố quận mênh mang khói chiều
Một đời lặng lẽ cô liêu
Đã phai mái tóc nỗi niềm ai hay
Sáng chiều gốc núi loay hoay
Đồi cao lũng thấp mây bay lạnh lùng
Trăm năm cũng chỉ bằng KHÔNG.
                             (Chỉ là KHÔNG)
Tình yêu và cuộc sống:
Hoàng Yên Linh yêu vô vọng và sống như một ẩn  cư. Những bài thơ như “Gọi Ta’, “Tình người xa xứ”. “Gởi người biết có mai sau”, “Chuyện chúng mình”, “Một Mình”…cho thấy tác giả sống cô đơn nơi thâm sơn cùng cốc, thiếu bạn bè, xa lìa tình yêu trong thăng trầm cuộc sống.  Ưu tư trong cuộc sống và hoài nhớ trong tình yêu là tiếng thơ chan chứa trong “ Chuyện Bên Đời”. Hai thứ tình cảm đó lồng chung trong con tim nhạy bén của nhà thơ, khiến cho lời thơ xa vắng, ý thơ như tiếng thời gian biền biệt  vọng trong không gian sâu thảm của đất trời, vọng trong hai miền quá khứ và hiện tại mà nhà thơ đã sống, vừa buồn vừa đẹp như nhau.
Một mình quanh quẩn một mình
Sáng ra đốt thuốc buồn tênh góc nhà
Bạn bè cứ mãi bôn ba
Cố nhân cũng đã bỏ ta lâu rồi
Thời gian hay chiếc lá rơi?
Đã nghe tím cả mây trời quạnh hiu
                                          (Gọi Ta) 
Hương trầm nhắc lại cố nhân
Đôi câu lục bát lạc vần nhớ thương
Quẩn quanh rồi cũng cuối đường
Từ trong sâu thẳm chương buồn gọi ta…
                                           (Gọi Ta)
Bâng khuâng ghép lại vần thơ
Người xưa có đợi có chờ tôi đâu
Lá trầu xanh quyện hương cau
Cố nhân còn đọng đôi câu ca buồn
Một mình tôi với hoàng hôn
Vàng tay khói thuốc tình buồn nhớ ai
                   (Gởi người…biết có mai sau)
Tiếng thơ Hoàng Yên Linh là tiếng tâm tình những điều ẩn chứa tự cõi lòng mình của một tâm hồn nhạy bén, biết biến hóa nỗi đau thành cái đẹp,
và cái đẹp ấy không phải là hư cấu nên sự chân thật tự nó truyền đến cho ta nhận biết bằng cảm tính của chính tâm hồn ta vậy:
Chênh vênh đồi núi chênh vênh
Cuối trời đất lạ chỉ mình-mình thôi
Nẻo đi buồn lắm người ơi
Nẻo về trăng có còn đôi bên trời
Vầng trăng xưa có nhớ tôi
“Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
                      (Gởi người…biết có mai sau)
Cà phê quán có mình tôi
Từng giọt thấm đẩm môi cười cố nhân
Tương tư say đắm bao lần
Mà thương yêu vẫn cung đàn dở dang
Cà phê quán buồn mênh mang
Ngỡ mình Phạm Lãi nhớ nàng Tây Thi
Hỏi tình mấy nẻo phân ly
Bước đi là một lần đi lỡ làng
                              (Chuyện chúng mình…)
Một ly một xị một mình
Một hình bóng cũ một mình tơ vương
Quẩn quanh gốc núi đồi sương
Một mình đối mặt tha phương một mình
Rượu say, say cũng một mình
Hỏi ai, ai nhớ hỏi tình ai quên
Hỏi mình trăm nẻo chông chênh
Hỏi người cố quận lênh đênh phương trời
                                          (Một Mình)
Sở dĩ người viết trích dẫn nhiều thơ của tác gỉả trong bài viết của mình bởi vì mỗi bài thơ Hoàng Yên Linh như một cung đàn trôi chảy và hài hoà.
Từng câu thơ trong mỗi bài thơ liên kết nhau như  một lẳng hoa, khó ngắt bỏ một bông hoa nào ra được.
Ngoài hai chủ đề chính trên, tập thơ ‘Chuyện bên Đời” của Hoàng yên linh gồm có 74 bài thơ
viết với nhiều chủ đề khác nhau, tất cả mọi cung bậc phản ảnh sự thăng trầm trong cuộc sống, sự chuyền động cúa một nguồn thơ thanh bai chất chứa  trong một tâm hồn lãng mạng./.

                                                      Châu Thạch
READ MORE - ĐỌC TẬP THƠ “CHUYỆN BÊN ĐỜI” CỦA HOÀNG YÊN LINH - Châu Thạch