Lê Hoàng |
Ngay từ nhỏ Cao Bá
Quát đã nổi tiếng thần đồng. Thông minh học giỏi, ứng đáp nhanh nhẹn,
song bản tính ngang tàng không chịu theo khuôn phép của học thuật và lễ giáo,
nên năm lên 23 tuổi, mặc dầu thi Hương đậu tới Á Nguyên (thứ nhì- Cử nhân), ông
lại bị đánh tụt xuống tận cuối bảng. Hai lần thi Hội đều bị đánh hỏng. Chán
cuộc sống khoa bảng, ông bất mãn sống cuộc đời phiêu lãng của một nhà nho.
Con đường quan lại của ông đầy chông gai, nhưng sự nghiệp
văn thơ của ông lại hết sức nổi tiếng.
Theo sách “Luận ngữ tứ thư huấn nghĩa” Đời Chu
có một nhà bốn lần sinh đôi, cặp đầu đặt tên: Bá Đạt, Bá Quát; cặp kế: Trọng
Đột, Trọng Hốt; cặp thứ ba tên:Thúc Dạ, Thúc Hạ; và cặp cuối là: Quý Tuỳ, Quý
Oa. Lớn lên đều đỗ tiến sỹ. Ông Đồ họ Cao lấy điển tích này mà đặt tên con là:
Bá Đạt, Bá Quát (vì hai người con này cũng sinh đôi).
Hai anh em lớn lên đều học giỏi, đều thông minh đỉnh ngộ. 12
tuổi đã làm đủ thể văn. Văn Đạt mực thước, văn Quát hào hùng. Quát có tính
ngông cuồng, tự phụ thường nói: “Tất cả cả có bốn bồ chữ,thì tôi giữ hai bồ,
anh tôi một bồ, còn một bồ mới đem chia cho thiên hạ”.
Bên cạnh nhiều tác phẩm nổi tiếng. Cao Bá Quát còn có những
giai thoại văn học trác tuyệt.
Một bữa, đi thăm bạn không gặp ông lang thang trở về, bụng
đói, hết tiền. Tình cờ gặp đám tang một cụ già, ông liền lần tới và xin tang
chủ được phúng cụ vài câu. Trước thái độ đàn anh kẻ cả của mấy vị văn thân, hào
mục đang cao giọng về chữ nghĩa, Cao bá Quát xưng là thầy đồ, do “Văn dốt, vũ
dát” nên thi trượt nhiều khoa, không dám làm câu đối chữ Hán, mà chỉ xin phóng
đôi câu đối chữ Nôm. Rồi ông ngâm ngay như sau:
“Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thích nhẻ đâu mà
khóc mướn?
Tưởng sự bách niên đừng nghĩ đến, động can tràng nên nổi
phải thương vay!”
Mọi người lắc đầu lè lưỡi thán phục, khi gạn hỏi thì mới
biết đó là Thánh Quát. Mọi người đều
chắp tay xin lỗi.
Nhân làng mới đắp hai con voi bằng gạch ở sân đình. Quát ra
xem nghe thấy dân chúng thì thào về tính gian lận của Lý trưởng, ông bèn làm
một bài thơ tứ tuyệt như sau:
“ Khen ai khéo khéo đắp đôi voi,
Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi,
Chỉ có cái kia sao chẳng thấy,
Hay là thầy lấy bớt đi rồi?”.
Một lần, Quát sang chơi Thăng Long gặp kỳ bình văn ở Nha Đốc
học, ông đến dự nghe, câu nào mà ông cho tầm thường, ông lại bịt mũi, lắc đầu.
Lính hầu thấy vô lễ, bắt vào trình quan Đốc. Quan Đốc vặn hỏi:
“Anh học ai mà xấc xược vậy?”
Cao Bá Quát đáp: “Tôi học ông Trình, ông Chu ”.
Thấy một anh học trò ăn nói ngông nghênh, khinh thường thiên
hạ, Quan Đốc cả giận bảo: “Anh đã tự xưng là học ông Trình, ông Chu sao lại thiếu lễ phép thế? Bây giờ ta ra một câu đối,
nếu không đối được, sẽ bị đánh 30 hèo. Anh hãy nghe đây: “Nhĩ tiểu sinh hà xứ
đắc lai, cảm thuyết Trình, Chu sự nghiệp”.
Có nghĩa: “Anh là một gã trò nhỏ ở đâu đến đây, dám nói sự
nghiệp ông Trình, ông Chu ”.
Quát đối liền: “Ngã quân tử, kiến cơ chi tác, dục vi Nghiêu,
Thuấn quân dân”. Có nghiã: “Ta là bậc
quân tử, thấy cơ mà dấy, muốn làm cho vua và dân được như đời Nghiêu, Thuấn”.
Quan Đốc khen thưởng và cho năm quan tiền.
Đến năm 14 tuổi, gặp khoa thi Hương, hai anh em vào kỳ đệ
nhất, làm bài chốc lát đã xong, hai anh em rủ nhau ra sân đá cầu. Quan trường
trông thấy hỏi: “Hôm nay là ngày tranh khôi đoạt giáp, sao hai anh lại nô rỡn ở
nơi đây?”
Quát thưa: “Kỳ này may gặp bài dễ, chúng tôi làm đã xong
rồi, vì cửa trường không mở cho học trò ra, nên chúng tôi đá cầu cho qua thời
giờ”.
Quan trường thấy sự lạ, liền hỏi Quát về gia thế, rồi ra câu
đối:
“Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đệ”
Có nghĩa: “Một bọc sinh đôi, khó biết ai là anh, ai là em”.
Quát đối: “Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thi thân”
Có nghĩa: “Ngàn năm một kỳ hội ngô, có vua ấy, có tôi ấy”
Năm 24 tuổi Cao Bá Quát không may vợ mất, ông làm bài văn
khóc vợ như sau:
“Ô hô!
Nữ bất hạnh, nhi vi tài tử phụ,
Nhĩ kim nhị thập hữu nhất, nhất triều thiên cổ,
Ngã kim nhị thập hữu tứ, tứ hải cửu chu.
Y! Hồng nhan bạc phận, tài tử vô duyên, duy ngã dữ nhĩ hữu
thị phù”
Có nghĩa: “Than ôi!
Gái không may mới làm vợ kẻ tài tử ,
Trai không may mới làm chồng khách hồng nhan ,
Mình nay hai mươi mốt, một sớm thình lình thiên cổ.
Ta nay hai mươi bốn, bốn bề trôi nổi chín châu...
Hỡi ơi! Hồng nhan bạc phận, tài tử vô duyên, chỉ có mình với
ta như vậy ru!”.
Năm Thiệu Trị (1841), ông được vào làm Hành tẩu Bộ Lễ. Tuy
giữ chức nhỏ nhưng vốn tính ngang tàng, ông chỉ trích khắp mọi người, từ vua
đến các bậc đại thần.
Hai ông Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương có mở “Mặc Văn Thi
xã”, ông đọc thơ của hai ông này rồi phê như sau:
“ Ngán cho cái mũi vô duyên,
Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An”.
Mặc dù, ông là bậc tài tử, được xếp vào hàng một trong bốn
người có văn tài nổi tiếng thời Nguyễn, đã có thơ rằng:
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”
Nghĩa là: “Văn mà như của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì
như không còn thấy văn chương thời Tiền Hán là trác tuyệt; thơ mà như của Tùng
Thiện Vương và Tuy Lý Vương thì thơ thời Thịnh Đường cũng chẳng theo kịp”. Qua
đó, cũng thấy rõ sự học rộng, tài cao nhưng lại quá kiêu ngạo của Cao Bá Quát.
Có lần ông phạm lỗi,
nguyên do là trong một khoa thi, khi được sung vào chân sơ khảo, ông đã pha mực
đen vào son đỏ để sửa quyển cho thí sinh, nhưng bị phát giác, ông bị cách chức
và đầy vào Đà Nẵng. Vào đây, gặp sứ bộ Đào Tri Phủ đi sứ Tân Gia Ba, ông được
tháp tùng. Khi ở Tân Gia Ba về. Những sự tai nghe mắt thấy ở nước ngoài khiến
ông thấy lối học từ chương là đã lỗi thời. Sau đó ông được phục chức Hành tẩu
Bộ Lễ.
Tuy Cao Bá Quát chỉ giữ một chức nhỏ trong triều đình, nhưng
nhờ tài văn chương, nên ông cũng được giới quyền quý ở kinh đô trọng nể. Ông
kết thân với những văn nhân nổi tiếng như Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật Thận, Miên
Thẩm... nhưng lại làm cho nhiều người bất bình vì thái độ cao ngạo. Một số hành
vi của ông đối với vua quan đương thời đã trở thành những giai thoại. Nghe nói
vua Tự Đức là một người hiếu học và hay chữ, có câu đối treo ở điện Cần Chánh:
“Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân”.
Nghĩa là: “Con biết nối nghiệp cha
Thần biết báo ơn vua”
Vua lấy làm đắc ý mà
các quan cũng chịu là hay. Riêng Cao Bá Quát thì tỏ vẻ không phục mà than rằng:
“Hay ru, hay ru, cha con quân thần điên đảo”.
Nhà vua nghe nói mới cho gọi ông vào hỏi nguyên do. Cao Bá
Quát liền tâu rằng: “Chữ tử đứng trên chữ phụ, ấy là con trên cha; chữ thần
đứng trên chữ quân, ấy là tôi trên vua, xin thưa điên đảo là thế vậy”.
Vua bảo nên sửa lại thế nào, ông liền đọc:
“Quân ân thần khả báo,
Phụ nghiệp tử năng thừa
(Ơn vua thần biết trả, nghiệp cha con biết nối).
Nghe câu chữa lại, Tự Đức phải chấp nhận chữa như vậy
thì cương thường mới thuận lẽ mà ý tứ
cũng sâu sắc hơn.
Lần khác, trong một buổi
ngự triều, vua Tự Đức đọc cho các triều thần nghe hai câu thơ mà nhà vua
nói là nghĩ ra trong giấc mơ đêm trước:
“Viên trung oanh chuyển “khề
khà” ngữ,
Dã ngọai đào hoa , “lấm tấm “khai”.
Các quan đều tấm tắc khen hay, ca ngợi hai câu thơ có ý tứ
độc đáo, riêng Cao Bá Quát thản nhiên tâu rằng: “Thưa bệ hạ, từ nhỏ hạ thần đã
được biết hai câu đó trong một bài thơ gồm cả 8 câu.
Vua Tự Đức cả giận, đòi Quát đọc cả 8 câu, định bụng sẽ trị
tội “Khi quân” nếu Quát không đọc được.
Không ngờ, Cao Ba Quát ứng khẩu đọc ngay như sau:
“Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển, khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai,
Xuân nhật bất văn sương lộp độp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài,
Khù khờ thi tứ đa nhận thức,
Khệnh khạng, tương lai vấn tú tài”
Nghĩa là:
“Ngựa báu từ phía tây, huyếch hoác lại,
Người huyênh hoang nhờ cậy dìu về.
Khề khà trong vườn oanh cất tiếng hót,
Hoa đào ngoài đồng đã lấm tấm nở,
Ngày Xuân chẳng nghe thấy tiếng sương lộp độp,
Tiết thu chỉ thấy mưa rơi bài nhài,
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết,
Lại còn khệnh khạng mang đến hỏi tú tài.”
Cả đình thần ngơ ngác. Vua Tự Đức một mặt hạ lệnh ban thưởng
chè và quế, mặt khác đòi Cao phải công nhận đã bịa thêm 6 câu ngoài hai câu của
Vua.
Từ đó Vua Tự Đức tuy có bụng khen tài Cao, nhưng cũng ghét
tính ngạo nghễ của ông, và cũng vì thế trong triều có nhiều người không thích
ông. Sau đó ông bị đổi ra làm Giáo thụ
phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây.
Uất hận về cảnh ngộ,
về sự hủ bại của triều đình, về nỗi lầm
than của dân chúng, năm 1854 ông bỏ làm quan về Bắc Ninh. Lúc bấy giờ các tỉnh
Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn đều có trộm cướp nổi lên. Nhân có
Lê Duy Cự tự xưng là con cháu của vua Lê. Họ Cao liền ngầm họp đồ đảng, tôn Cự làm minh chủ, rồi hẹn ngày khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa đã liệu đúng thời cơ vì lúc đó dân khắp vùng trăm chiều khổ
cực; đê Văn Giang (Hưng Yên) bị vỡ 18 năm liền; nạn châu chấu phá hại mùa
màng... và đã khôi phục nhà Lê, nắm được chính nghiã, quyết đánh đổ một chế độ
mục nát. Lại chọn được địa lợi miền núi Mỹ Lương hiểm trở, rất hợp cho cuộc
khởỉ nghĩa.
Theo kế hoạch, quân của Lê Duy Cự đánh phá vùng Sơn Tây, Bắc
Ninh, cô lập Thăng Long định đánh úp thành này là xong việc lớn.
Tiếc thay, cơ mưu bị bại lộ, tổ chức lại chưa hoàn bị, cho
nên chẳng bao lâu đã bị đánh tan rã, Cao Bá Quát bị bắt giam tại nhà ngục Sơn
Tây, sau đó bị đóng củi đưa về Hà Nội và giải vào Huế.
Cao Bá Đạt đang làm tri huyện Nông Cống vì việc khởi nghĩa này cũng bị bắt giải về Huế,
dọc đường cắn đầu ngón tay viết tờ biểu rồi tự sát.
Cùng bị giải về kinh với Cao Bá Quát có Lê Duy Đồng, cháu vua Lê Hiển Tôn, cũng là
một can phạm.
Lúc đoàn quân áp giải đi ngang qua làng Bố Vệ, tỉnh Thanh
Hóa, Lê Duy Đồng xin vào yết miếu Lê Thái Tổ ở đó. Yết xong có viết lên tường
một bài thơ, rồi tự đâm cổ mà chết.
Riêng Cao Bá Quát bị bỏ ngục, chờ ngày hành quyết.
Nằm trong ngục, Cao Bá Quát không hề sợ sệt, tự nhạo cái
mộng đế vương của mình như sau:
“ Một chiếc cùm liêm chân có đế,
Ba vòng xích sắt, bước thì vương”
Trước khi thọ hình, ông còn ứng khẩu:
“ Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ thời (đời)” (1).
Tiếc thay một đời tài hoa!
Lê Hoàng
Đã tham khảo qua các sách văn học việt nam.
Ghi chú: (1) Có sách ghi là Đời. Chữ Thời là tên Húy của vua
Tự Đức.
No comments:
Post a Comment