Trên quả đất nầy,
nếu trăng tròn thì đứng ở đâu nhìn cũng thấy tròn mà trăng khuyết thì đứng ở
đâu nhìn cũng thấy khuyết. Vậy mà nhà thơ Vĩnh Thuyên vào đề bài thơ với hai
câu:
Trăng nơi em
giờ tròn hay khuyết ?
Trăng ở đây
còn chỉ nửa vầng
Đây chỉ là một câu thơ khơi chuyện giống như câu ca dao ngày xưa của anh
chàng tát nước đầu đình:
Hôm qua
tát nước đầu đình
Bỏ quên
chiếc áo trên cành hoa sen
Áo có mấy ai đem treo hay vắt trên cành hoa sen mà được bao giờ. Tuy thế cách
vào chuyện ví von nầy rất tế nhị, nói lên được tâm hồn thanh tao, thi vị của
người phát ngôn ra nó. Ở đây Vĩnh Thuyên dùng trăng để hỏi thăm về hạnh phúc
của em và dùng trăng thể hiện cho mình nỗi mất mát, cô đơn. Hai câu thơ còn làm
ta liên tưởng đến những vầng trăng khuyết biểu tượng của chia ly:
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in
gối chiếc nửa soi dặm đường
(
Nguyễn Du)
Hay:
Hôm nay còn nửa trăng thôi Một nửa trăng ai
cắn vở rồi
(
Hàn Mặc Tử)
Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử của ngày xưa hay Vĩnh Thuyên ngày nay đều xử dụng bút
pháp ước lệ là một đặc điểm của thi pháp để thu hết cái tâm trạng da diết, lồng
hết cái hoàn cảnh của tình vào trong hai câu thơ ngắn gọn.
Nửa vầng trăng của Nguyễn Du thì ở cùng hai người mỗi bên một nửa.
Nửa vầng trăng của Hàn Mặc Tử thì làm cho thi nhân trong đêm nhớ thương buồn
đứt ruột.
Nửa vầng trăng của Vĩnh Thuyên lại ở trong chính nội tâm mình, và nó không phải
là nửa vầng trăng của một đêm hay của một mùa trăng mà nó ray rứt trong tâm can
suốt cả một đời:
Nửa vầng trăng
Nửa nụ hôn nuối
tiếc
Hơn nửa đời người
Mình lạc mất nhau
Câu thơ “Mình lạc mất nhau” chứng tỏ tác giả đã từng có “Một nửa vầng trăng”
rất đẹp, nghĩa là đã có một quãng thời gian dài đầy thơ đầy mông, đầy hạnh phúc
của tình yêu. Câu thơ “Mình lại mất nhau” khiến cho người đọc liên tưởng đến
quá khứ hai người yêu nhau là cả một vầng trăng tròn trịa lung linh trong cuộc
đời, rồi bỗng nhiên nửa vầng trăng vụt biến, và nửa vầng trăng còn lại chỉ là
một khối đau thương.
Đang nói vể trăng là hình ảnh ban đêm, đột nhiên Vĩnh Thuyên lại chuyển qua
hình ảnh ban ngày với giọt nắng mùa thu vô cùng khác biệt với trăng:
Giọt nắng
mùa thu
Buồn vui
hai nửa
Nửa úa
vàng
Nửa
cũng hanh hao
Tất nhiên, tâm hồn thi sĩ được quyền lượn như con bướm, và con bướn Vĩnh Thuyên
không lượn từ bông hoa nầy qua bông hoa khác hay vườn hoa nầy qua vườn hoa
khác, mà lượn qua hai cõi thời gian cùng một lúc, có nghĩa là thi sĩ đi lại
trong thời gian bằng tư tưởng của mình. Ngồi nhìn trăng mà nghĩ về giọt nắng,
nghĩa là giọt nắng nầy không hiện ra trước mắt mà nó đang úa vàng, đang hanh
hao trong lòng tác giả. Người đọc có thể liên tưởng rằng giọt nắng là trăng của
hai miền. Trăng của miền anh thì úa vàng, trăng của miền em thì hanh hao. Cả
hai miền trăng cô đọng ánh sáng trong tâm hồn tác giả, hóa thành giọt nắng mà
hai nửa có hai màu khác nhau nhưng đều là ảm đạm. Với tôi, người viết ra thơ
là tác giả làm thơ, còn người xem thơ là tác giả đọc thơ. Tác giả làm thơ hóa
thành trăng thì tác giả đọc thơ cũng bay lên chin tầng trời để nhìn xem trăng
đẹp, tác giả làm thơ biến vào trong giọt nắng thì ta cũng vào để thấy hết giọt
nắng long lanh, như vậy sẽ thưởng thức được tận cùng cái hay của bài thơ sáng
tác.
Vĩnh Thuyên đã sử dụng bút pháp chợt ẩn, chợt hiện, đánh đổi với thời gian, và
lại ước muốn có đôi tay rộng để ôm choàng trái đất, nhưng thật chua xót, vòng
tay đã không còn trọn vẹn:
Anh
muốn ôm nửa vòng trái đất
Để
trả em
Nửa
nụ ngọt ngào
Nửa nụ ngọt ngào của Vĩnh Thuyên không phải là chỉ một giây hay một phút mà là
nửa cuộc đời còn lại của anh. Như ta thấy Vĩnh Thuyên đã nói “Hơn nửa đời/
Mình lạc mất nhau” nên nửa nụ hôn còn lại phải dài cho đến cuối đời.
Hai câu cuối của bài thơ là một lời than và một câu hỏi rất tội tình:
Còn
nửa nào mà nhớ thương quá đỗi
Mai…nửa
trăng về, nửa có về theo?
Mai… là ngày mai hay cuối đời? Về là về đâu ? Quê hương hay cõi vĩnh hằng ? –
Tác giả không nói.
Hai câu thơ cuối cùng vẽ lên một niềm hy vọng mong manh nhưng gợi lên một nỗi
buồn tuyệt vọng khôn cùng Vĩnh Thuyên hạ bút ở đây để người đọc lững lờ theo suy
tưởng. Đó là nghệ thuật người viết thường dùng luôn làm cho người đọc vương vấn
hoài âm hưởng của thơ.
Bài thơ mở đầu là trăng của hai vùng quả đất, rồi thu nhỏ vào giọt nắng mùa
thu, nói về hai nửa nụ hôn để diễn tả mối tình chia ly của hai mãnh đời chia
biệt. Nụ hôn chỉ có dài và ngắn, không có một nửa bao giờ. Vậy mà khéo léo làm
sao, Vĩnh Thuyên đã chia nụ hôn thành hai nửa như hai nửa địa cầu, hai nửa cuộc
đời và làm cho hai nửa nụ hôn trùm lên không gian, thời gian và vạn vật, biến
nụ hôn là vầng trăng trở thành giọt nắng, đem nụ hôn hòa điệu với trăng ngàn và
dấu nụ hôn vào sâu trong ước vọng.
Tôi yêu bài thơ và tôi để bài thơ rung động trong lòng đã lâu, đến nay chỉ viết
ra được một phần nào những gì tôi cảm xúc.
Thay lời kết tôi
trích lại comment của bạn SƠN TRẦM đã đăng ở dưới bài thơ như sau :
...còn nửa nào!?
nửa vầng trăng, nửa nụ hôn nuối tiếc, nửa đời người, nửa giọt nắng hanh hao,
nửa vòng tay, nửa...có về theo? Chữ “nửa” đi suốt bài thơ, được chuyên chở bằng
dấu hỏi từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, khiến người đọc cảm thấy như
muốn...ngạt thở trong sự vô vọng của cuộc kiếm tìm một nửa còn lại của mình!
Adam và Eva cứ khóc tìm nhau từ...thuở nằm nôi đến thuở...bạc đầu, cuối cùng
rồi, giọt nước mắt cũng cắt làm hai !!!
Thầy Cao Hữu Điền và phu nhân trước nhà riêng tại Huế - Ảnh NKP
Năm 1970 tôi bắt đầu
biết tiếng Pháp nhờ học với thầy Lê Văn Quýt- Năm sau tôi học tiếp môn sinh ngữ
phụ này với thầy Cao Hữu Điền. Mỗi thầy có một lối giảng dạy khác nhau. Một
thầy giáo già đầy kinh nghiệm với lối dạy kinh điển - học từ ABC và luôn bắt học
trò học thuộc lòng bài học. Một thầy giáo trẻ, kiến thức đại học, với lối dạy “fantesie” hơn. Chủ yếu hoc sinh
nghe bài giảng và tự giác học hơn là bị trả bài theo lối truyền thống.
Thầy Cao Hữu Điền -
một giáo sư trẻ, vừa tốt nghiệp đại học
sư phạm Huế, vóc dáng thư sinh, nước da trắng và mái tóc dài rất nghệ sỹ. Nếu
tôi nhớ không lầm thẩy Điền ra dạy
trường Nguyễn Hoàng cùng năm với thấy Trần Ngọc Cư và thầy Lê Văn Gioang.
Tôi nhớ thầy lên lớp giảng bài nhỏ nhẹ và ít truy bài nên không khí lớp ít sôi nổi hơn giờ học với
thầy Quýt.
Lối dạy đó thích hợp với sinh viên hơn là học sinh tỉnh lẻ
như tụi tôi, may mà có căn bản từ năm học lớp 10 nên một số bạn theo kịp trong
đó có Võ T. Quỳnh, H.T. Bích Hường, Thu
Trang, Thái H. Nguyên, Trần Đ. Hành…
Thầy đi dạy nhưng hình như tâm trí để dành cho những hoài
bảo khác, nên ít đầu tư hoàn toàn cho công việc. Bạn bè của thầy ngoài ít đồng nghiệp thân thiết, còn có anh H. N. Đ., một phó quận trưởng bỏ công việc
về tỉnh lỵ cầm đàn violon ra đường cản đường xe Mỹ!
Trong những lần xôn xao như thế, tôi thấy thầy Đ. xuất hiện
loay hoay chăm sóc bạn - người bạn mà lúc đó nhiều người bảo là điên vì dám chống
lại chính quyền và bỏ việc!
Thời đó thầy hay ghé nhà của Lê Đ. T. Thành, là bạn cùng lớp,
cùng xóm, vừa là cháu gọi tôi bằng cậu
vì anh Đ., bạn thầy, hay về nhà Thành chơi và ở lại.
Tôi có cảm tình với giọng Huế nhẹ nhàng của thầy và thích
lối phản kháng phản chiến rất tuổi trẻ mà thầy tham gia dù thời đó tôi chẳng có
chính kiến gì rõ ràng về chính trị chính em. Thầy giản dị hơn thầy Trần Ngọc Cư,
ít nói chuyện thời cuộc trong lớp và ít mĩa mai cuộc đời…, có thể do điều đó nên
học trò dễ gần gũi với thầy hơn chăng?
Năm 1972 chiến sự xảy ra tại Quảng Trị, học hành chưa hết học kỳ 1 thì thầy cô & học trò NH tan đàn xẻ nghé - từ
đó tôi bặt tin thầy.
Tôi gặp lại thầy năm
1997 hay 98 gì đó tại quán Rất Huế của N.Đ. Mừng, lúc đó thầy còn khỏe, đang điều
hành một công ty lữ hành chuyên giao dịch với khách Tây nên tiền bạc đủng đỉnh, hay rủ học trò cũ đi nhậu. Mỗi buổi nhậu
đều có đàn hát, thơ phú vì thầy là một chàng nghệ sỹ mắc đọa với trần gian mà!
Tôi bận công việc nên thỉnh thoảng mới đến chơi với thầy. Chỉ nhớ mỗi lần gặp ban đầu chỉ một hai người,
sau đó là năm sáu người và cuối là nhiều
người. Hình như là thầy sợ cô đơn khi thiếu bạn bè?
Có lần tôi mời thầy về nhà dùng cơm, thầy uống không nhiều nhưng thích nhìn ly rượu và thích
nói chuyện hơn. Chuyện của thầy bảng lảng như nước chảy mây trôi, không có sự
bắt đầu và kết thúc: một cảm giác tê tái nhớ nhà khi lang thang bên dòng sông
Sein ngắm hoàng hôn, chút bâng khuâng nhớ nhung khi ngổi bên chiếc cầu ở biên
giới bên trời Tây, một cái chào xã giao
của người con dành cho cha sau bao năm trời mới gặp lại trên đất Mỹ, một nét văn hóa khác biệt của dân xứ này xứ nọ… phải chịu khó ngồi nghe, đừng vội nhỉn đồng hồ, phải đi đó đi đây
hay đọc sách nhiều mới cảm được cái tâm sự rất thực của nguòi đàn ông sinh ra ở
xứ Huế nhưng đôi chân và cái đầu thì đi
khắp nơi trên thế giới nên câu chuyện cũng trở thành “quốc tế”.
Những năm sau, do bệnh nên khi nhậu thầy thay ly bia bằng ly nước trà. Ai mà trách người bệnh nên chuyện thầy ngồi
nhậu mà chẳng uống chẳng ăn là hình ảnh quen thuộc với bạn hữu ở SG.
Sau một thời gian thầy dứt khỏi công việc, ra Huế dưỡng bệnh
và lúc đó thầy biết nghe lời bác sỹ và bạn đời Ái Anh hơn.
Hè năm 2007 về họp mặt Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị xong tôi vào Huế thăm thầy
trước khi vào lại SG. Hai thầy trò đàm đạo tâm đắc đủ thứ chuyện trên đời đến nỗi quên cả ăn tối
và suýt trễ chuyến bay đêm.
Ngôi nhà 13 Phạm Ngũ Lão của thầy và chị Ái Anh là điểm “tập kết” của bạn bè tứ phương khi ra miền Trung.
Thầy làm du lịch kinh nghiệm như thế nào không rõ, nhưng một
đôi vợ chồng nguòi Pháp là bạn của em
trai tôi luôn hết lời ca ngợi thầy như
là một người VN có kiến thức xã hội uyên thâm, sử dụng ngoại ngữ tuyệt vời, sống quan tâm đến mọi người đến nỗi lúc đi du nghiệp từ Pháp chú ấy gọi về
hỏi tôi thầy Điền là ai.
Nay do bệnh nên ít đi xa, nhưng thầy lại thường xuyên gặp gỡ bạn bè trên mạng. Ngày nào thầy cũng
cho những bạn bè xa biết thời tiết của Huế như thế nào và nhất là
tin tức về dòng sông Hương mà thầy yêu mến vô cùng.
Tôi thích cách so sánh như thế này: Thầy Điền sinh ra không
phải để làm thầy giáo, nhưng làm một
chàng nghệ sỹ mắc đọa chốn trần gian. Ơn
Trời thầy có được cô tiên Ái Anh bầu bạn
nên đi đày mà vẫn cứ vui.
Cầm tập thơ “Và quá khứ thấy
ta” của Vĩnh Thông trên tay, đọc qua lời đề bạt ở trang đầu và các nhận xét thơ
in nơi trang bìa, thật lòng tôi cứ nghĩ đây là thơ của một ông cụ non vì thấy
ai cũng nói Vĩnh Thông còn rất trẻ nhưng thơ thật là già dặn, như một bậc trung
niên. Thế nhưng khi đọc những bài thơ đầu vào các trang trong tôi mới hiểu rằng
quý vị nhà thơ, nhà văn kia muốn nói rằng thơ Vĩnh Thông hay ở một tầm cao mà
thôi. Thật thế, qua 36 bài thơ tôi không cảm thấy cái già dặn trung niên trong
thơ Vĩnh Thông mà cảm nhận được sức trẻ dồi dào sinh lực như một bông hoa nở rộ
giữa đương xuân.
Vào đầu tập thơ với “Hạt bụi
rong chơi” tôi nhận ra ngay đây là anh chàng tuổi thơ lêu lỏng, rong chơi tháng
ngày một cách vô tư không bầu rượu, không cả túi thơ. Thế rồi hạt bụi đó dừng
lại đáng yêu làm sao trên bàn tay người con gái:
Bụi cứ bay bay
Một hạt nào lẳng lơ dính trên bàn
tay con gái
Ngỡ ngàng…Chớm yêu!
Hết rong chơi, bây giờ Vĩnh
Thông say, nhưng không say rượu, không say tình như các nhà thơ trung niên túy
lúy mà say cái mùi thơm ngát của tuổi thơ ngây:
Khói sương
Rũ xuống đồng ta
Một mùi thơ ấu, thật thà
Dễ say
Vì thế cái say của Vĩnh Thông
trong sạch, nhẹ nhàng, siêu thoát và thú vị biết bao:
Nhẹ như mây gió vô thinh
Nghiêng như một lá linh đinh
Rụng rời
Thế rồi trong cuộc rong chơi,
trong cái say đầy cao thượng “như đất muôn đời đã say”, nhà thơ Vĩnh Thông đến
ngồi ở “Quán lạ ven sông”. Ở đây, tôi thấy một dòng sông đầy lục bình và tôi
bật khóc vì hiểu hết cái tình yêu quê hương vô cùng của cậu bé tuổi còn thơ
ngây, rất trẻ:
Ngồi ở quán, lục bình trôi ngang mặt
Nhìn đâu cũng phản phất dáng quê
…
Chim nhớ quê. Ừ thì ta cũng nhớ
Chim về quê. Ta lại chẳng được về!
Khi nhớ đến quê thì thường
xót lòng cho nỗi khó nhọc ở quê. Với bài thơ “Lụt lên hạt gạo loay hoay”: Hạt
gạo của Vĩnh Thông mang tâm trạng con người, biết loay hoay xoay xở, nghĩa là
Vĩnh Thông đã thu cả sinh hoạt con người vào trong hạt gạo.
Rồi có lẽ rong chơi quá độ
nên quên hết cả chính mình. Một ngày Vĩnh Thông tìm lại mình trong bài thơ “Tìm lại ta”. Chàng tìm lại cánh đồng nắng cháy, cánh diều, con kinh, ly cà phê
vỉa hè, và bẹn bè, và tình yêu nhưng tất cả là:
Cũng lãng đãng
Như gió như mây
Bay nhẹ qua mình
Và nhà thơ Vĩnh thông có máu
thương hồ. nhưng vì còn trẻ tuổi nên chỉ rong chơi, chớ cái máu thương hồ khó
mà thành được:
Mộng thương hồ thì cứ đầy trăng
Mà nỗi nhớ chưa nột lần nguôi
được
“Đi qua rồi” là một bài thơ
mà trong đó cái quê hương cũ mà “Nơi đây từng có một mùa trăng trú ngụ” đã “Đi
qua rồi như ngọn khói vờn bay” để anh phải lấy “Vị đắng sầu đầu thay bằng cà
phê phố thị”. Diễn tả nỗi nhớ như thế quả là đắng, đậm và ngon vô cùng.
Tiếp đến Vĩnh Thông vẽ. Nhà
thơ nói “tôi ký họa mình vào giấc mơ của đất”, “Tôi ký họa hình của dấu chân
vào sương”, “Tôi ký họa mặt người vào dòng sông buông”, rồi nâng những bức
tranh lên nhìn, để thấy nó là sự nhỏ nhen của thân phận kiếp người đã “bạc màu
cùng năm tháng trôi xuôi”
Vĩnh Thông định nghĩa nỗi đau
rất hay. Nỗi đau chính là “lát cắt hình hài”, nó đã cựa mình trong tình yêu, trong cuộc đời
và “có lẽ, đó cũng là hạnh phúc”. Vĩnh Thông đẹp trai lại làm thơ hay nên bài
thơ “Có lần em bước theo ta” có thể tin là có thật. Đọc bài thơ nầy tôi thấy cả
mái tóc nàng lớn và dài đến nỗi phủ cả không gian và thời gian vậy:
Có lần em bước theo ta
Hồn nhiên gánh mùa thu nắng
Tóc huyền lẫn trong lòng phố
Thức cùng ta suốt đêm dài.
Tôi không biết Nhơn Hưng là ở
đâu, nhưng tôi yêu ngay Nhơn Hưng vì bài thơ “Nắng Nhơn Hưng” có hai câu thơ
tác giả nói chẳng say nhưng lại làm cho tôi vừa đọc đã say rồi:
Mùi bông tràm xông cùng hương đất
Thấm rượu nhân tình, cạn chẳng say.
“Thất sơn chiều cuối năm” là
một bài thơ tả cảnh nhưng lại có cái hào khí của một bản anh hùng ca, lại cũng
có nỗi buồn của một khúc bi ca:
Thất sơn chiều cuối năm
…
Mưa trắng tóc mây, trắng tóc người
…
Đường
phố núi dài
Tìm em không gặp
Bụi bặm
cuộc đời che tóc em nghiêng.
Tôi bỏ qua nhiều bài thơ tứ
và lời thi vị để viết về bài thơ “Và quá khứ thấy ta” là bài thơ mà tác giả
lấy làm đề tài của cả tập thơ. Đây là những bước đi lầm lũi, quyết tâm trong
cuộc đời nhưng những bất chợt đôi khi rất bình thường trong cuộc đời đã ngăn ta
lại, và những bất chợt đó đã níu kéo đời
ta làm phí phạm thời gian, để khi ta quay đầu thì ta chạm bến tử sinh:
Không có gì khiến ta quay đầu nhìn
lại
Nhưng bất chợt…
Dế ngâm
…
Bất chợt én bay
…
Ta đi theo tình đi theo mình
Theo quê hương sông núi
Quay đầu- Chạm bến tử sinh
Và quá khứ thấy ta!
Thật tình tôi không hiểu hết
cái đầu đề của bài thơ nhưng tôi tự lý giải rằng: Đời người ai cũng có quá khứ,
và cái quá khứ đó đã lọc và ghi lại cuộc đời ta trung thực, không như hình ảnh ta trong hiện tại phải sai đi vì
qua rất nhiều lăng kính. “Và quá khứ thấy ta” là quá khứ lưu trử hình ảnh thật
của Vĩnh Thông, làm chứng cho Vĩnh Thông, biện hộ cho Vĩnh Thông là một chàng
thi sĩ chân thật, hăng say, hăm hở đi suốt theo em và theo những nẽo đời chân
chính.
Qua 36 bài trong tập thơ “Và
quá khứ thấy ta”, tôi chỉ đề cập sơ lược
đến 13 bài thơ ở những trang đầu như trình bày một vài bông hoa tiêu biểu. Với
tôi, tôi không xem Vĩnh Thông là trẻ, tôi cũng chẳng nói Vĩnh Thông là già mà
Vĩnh Thông là một nhà thơ. Thơ Vĩnh Thông chứa đầy sức trẻ, lại tiềm ẩn một
triết lý sống sâu xa, được diễn tả không bằng lời, không bằng chữ màu mè mà ở
trong hương vị của thơ. Thơ Vĩnh Thông là tình yêu đất nước, con người sâu đậm,
cũng không diễn tả bằng những từ lộ liễu mà ẩn sâu trong cử chỉ, trong hơi thở
của nhà thơ qua từng lời thơ nhắc đến quê hương, cuộc sống và con người.