Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, April 15, 2012

TIẾNG QUẢNG TRỊ - Trần Hữu Thuần

Kính gửi ban biên tập

Tình cờ tìm trên mạng, tôi thấy quí ban biên tập có đăng lại một bài của tôi bàn về tiếng nói của người Việt qua ba miền. Bài đó là bài tiếp theo bài Tiếng Quảng Trị mà trước đó tôi đã cho phổ biến trên Talawas và trên dunglac.org.

Tôi kính gửi đến ban biên tập bài Tiếng Quảng Trị, để gọi là góp chút công sức vào Quảng Trị quê hương mà tôi đã phải rời xa từ lúc còn rất bé nhưng vẫn canh cánh trong lòng.

Kính chúc quí ban biên tập an mạnh để tiếp tục công việc. 
                                                                                                   THT
 Cửa sông Bến Hải

TIẾNG QUẢNG TRỊ
Trần Hữu Thuần
(Viết năm 2008)

Tôi sinh ra vào tháng sáu năm 1941. Tôi nói ra năm sinh của tôi không phải để khoe tuổi nhưng để đề cập đến chuyện thời gian qua mau. Mới đó mà tôi đã buớc vào tuổi 67, chỉ còn ba năm nữa là 70. Những gì trời và cha mẹ tôi cho tôi biết, nếu không có cơ hội nói lại thì có thể mất đi, mai một nếu sính dùng từ đao to búa lớn. Tôi muốn nói về tiếng Quảng trị, thu gọn vào làng quê nơi cha mẹ tôi cho tôi vào đời. 


 Tác giả: Thu An Trần Hữu Thuần (Thời còn trai trẻ)

Làng quê nội ngoại tôi tên gọi là An Du Tây hoặc An Do Tây, thuộc huyện Gio Linh, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng trị. Giấy Thế vì Khai sinh của tôi nêu rõ như vậy. Trước năm 1954, có bốn làng mang tên An Du, chia ra Nam, Bắc, Đông, Tây. Chính quyền chế độ hiện nay đã xoá tên làng Tây, chỉ còn lại ba làng. Có lẽ ngày xưa trước khi chia thành bốn, nguyên thủy chỉ có một làng vì nhà thờ tổ của phía ngoại tôi ở làng Nam. Người ta còn gọi làng tôi bằng tên Đất đỏ vì đó là một vùng đất đỏ ở giữa  khu vực đất trắng.

Ông ngoại và bà nội tôi là chánh gốc An Du Tây. Bà ngoại tôi nguyên ở làng Đông còn ông nội tôi từ nơi khác, làng Phù Mĩ, đến nhập tịch. Tôi ngay từ hồi còn nhỏ rất thắc mắc, tại sao ông ngoại và bà nội tôi là chánh gốc An Du Tây mà lại nói tiếng Quảng trị khác nhau? Bà nội tôi dùng nhiều từ mà hình như không ai khác trong làng dùng kể cả bên ngoại tôi. Ví dụ đa số nói “Trời” còn bà nội tôi nói “B’lời,” đa số nói “Gạo” thì bà nội tôi nói “Cấu.” Không biết có cơ duyên nào để bài này được lọt vào mắt xanh một  học giả nào đó—ông Bình Nguyên Lộc chẳng hạn—để có lời giải thích giùm tôi không?

Như đã trình trên, tôi sinh năm 1941. Tôi học vỡ lòng với các o Nhà Phước mà sau này tôi mới biết là các nữ tu thuộc dòng Mến Thánh giá đạo Công giáo. Các o Nhà Phước đó bây giờ lại tự xưng là xơ, trong khi các dòng nữ trước đây tự xưng là xơ thì bây giờ lại tự xưng là dì! Giấy bút không có, lũ học trò chúng tôi tập viết bằng gạch hoặc ngói vụn trên nền nhà. Bài học là những tấm vải kẻ chữ sẵn để chúng tôi tập đọc, ví dụ một bài như sau:
huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã
Lời Chúa dạy phải giữ
Đừng kết bạn kẻ dữ vv.

Lên lớp năm lớp tư (bây giờ là lớp một lớp hai), tôi phải bới cơm trong mo nang với muối đậu muối mè đi bộ có lẽ hơn một giờ đến trường ở làng Nam, đến chiều mới về. Gọi là trường nhưng thực sự thì chỉ có một gian nhà tranh vách đất, bàn ghế là những thân cây ghép lại. Và chỉ có một thầy dạy tất cả các lớp từ trên xuống dưới. Hình như trường chỉ có ba lớp năm-tư-ba, các lớp gọi là Sơ học Yếu lược. Học sinh chẳng có mấy người, đến từ các làng chung quanh. Chúng tôi gặp quá nhiều khó khăn khi phải đọc đúng theo thầy hai từ ăn và anh. Lý do là chúng tôi không có hai từ đó. Ăn chúng tôi nói nghe như là an, còn anh thì là eng. Thêm vào đó, quê tôi còn nhà quê trong việc vẫn còn trao đổi bằng tiền đồng Nhà Nguyễn, với các trự tiền ăn ba, ăn sáu, ăn mười. Đó đã là thời Pháp thuộc và Quốc trưởng Bảo Đại, với tờ bạc Đông dương Gánh dưa, Bộ lư gì đó.

Các tiếng nhà quê và tiền đồng đó theo mãi người dân quê tôi, và không biết có thể đến bao giờ, nếu không có biến cố 1954, Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Ngoại trừ gia đình tôi và một số gia đình đã bỏ quê hương ra đi từ trước, dân làng tôi hầu như toàn bộ di cư năm 1954 mang theo tiếng nói nhà quê và tiền đồng trên, loaị tiền đã làm bao nhiêu người trắng tay vì chẳng đổi được gì khi đến nơi khác. Người ta bán đổ bán tháo cho người đúc đồng hoặc người mua tiền cổ. Cùng với tiền đồng, đa số tiếng Quảng trị cũng mất đi khi người ta thay thế loại tiếng nhà quê này bằng các tiếng thành thị để bằng chị bằng em khỏi bị chê cười!

Để gọi là mua vui, tôi xin trình ra các từ nhà quê tôi còn nhớ được với giải thích bằng từ thành thị.

Ả = chị
An = ăn
Áo lá = áo cụt, áo mặc bên trong.
Bạo = bão (tố)
B’lăng = trăng (cũng nói trăng)
B’lời = trời (cũng nói trời, t’lời)
Bọ = cha
Ca (con ca) = gà (con gà)
Cẳng = chân (cũng dùng cả từ chân)
Cấu = gạo (cũng nói “gạo” nữa)
Cấy = vợ 
Cấy = cái (cấy chờng = cái giường)
Cấy = con gái (o con cấy = cô con gái)
Chạc giợ = dây nhợ
Chắc = nhau (đập chắc = đánh nhau)
Chi = gì, sao
Chiếng =giếng
Choọc = Thọc (lấy cái gì để thọc, ví dụ: choọc léc = thọc lét) nhưng vẫn nói “chọc” trong “chọc ghẹo”
Chộ = thấy
Chôồng = chồng (chất)
Chờng = giường
Chu = châu (chu phê = châu phê; chu sa = châu sa)
Chưn = chân (cẳng)
Cộ (khoai) = củ (khoai)
Côi = trên
Cơn = con, cái (loại từ) dùng hạn chế với cơn đao (con dao), cơn rạ (cái rựa), cơn sào (con sào), và ít từ khác.
Cụ = cậu
Cươi = sân
Du = dâu (con dâu: vợ của con trai)
Dzầu = dầu (hỏa). Âm “Dz”này tôi tạm phiên âm, đọc giống như âm “Th” trong “The” tiếng Anh. (Cũng nói dầu như bình thường)
Đao = dao
Đàng = đường
Đặng = được
Đụa (đôi) = đũa (đôi)
Eng = anh
Giôông = chồng
Giôông = giông (bão)
Hè = nhỉ (tiếng đệm, Chi lạ rứa hè = Sao lạ thế nhỉ?)
Hoọc = học
Khôông = không
Lả = lửa
Lịp = nón lá (cũng nói là “nón lá”)
Ló = lúa
Lọi = gãy (chân)
Lộ = lỗ (mũi)
Mạ = mẹ
Mần = làm
Mệ = bà
Mẹng = miệng
Mi = mày
Mo nang = tàu cau (nhưng vẫn gọi trái cau, cau trầu chứ không gọi là trái nang, nang trầu)
Mô = đâu
Mồm = miệng
Mụ = người ngang vai vế với bà, quan hệ bà con hay không.
Mui = môi
Mụi = mũi
Mự = mợ  (vợ của cậu)
Nác = nước
Ngái = xa
Ni = này
Nôỗng = nương (không ở quanh nhà, và thường thế đất cao)
Nớ = kia (chuyện nớ)
Nương = vườn (chung quanh nhà)
O = cô
O mi; cụ mi; chú mi = dùng để chỉ ngôi thứ hai, thường do người trên nói với người dưới và có tình thân mật. Ví dụ anh nói với em gái: “o mi nói rứa nghe mô đặng”: cô nói thế nghe không được = không hợp lý)
Ót = cái gáy (phía sau cổ)
Ôông = ông
Phản ngựa = bộ ghế ngựa (làm bằng hai chân rời gọi là ngựa trên bắc ngang nhiều tấm ván vừa làm giường ngủ, vừa làm nơi tiếp khách quí )
Rạ = rựa
Răng = sao (tại sao)
Roọng = ruộng
Rớ = lưới (cá; chài rớ = chài lưới)
Rú = rừng
Rứa = thế, vậy, như vậy, ví dụ “Mần rứa khôông đặng”: Làm thế không được.
Su = sâu
Tam = em
Tê = kia (bên tê)
Thúi = thối
T’lâu = trâu (cũng nói trâu)
T’le = tre (cũng nói tre)
T’lời = trời (cũng nói trời, b’lời)
Thoọc = thọc
Tra = già
Trẽn = thẹn, mắc cỡ.
Trôốc = đầu
Trôốc cúi = đầu gối (nhưng vẫn nói “cái gối gối đầu”)
Trớng = trứng
Trự (tiền) = đồng tiền
Trượng = dượng (chồng dì, chồng cô)
Út = em
Xạ = xã (ôông xạ = ông lý trưởng)
Xôống = (áo) xống

Một vài nhận xét:
  1. Ba âm “d”, “gi”, và “nh” đều nói thành “gi”, do đó “dái”, “giái”, và “nhái” đều nói thành “giái.”
  2. Âm “uân” nói thành “un”, ví dụ “quần” thành “cùn”, tên tôi là “Thuần” đọc thành “Thùn”
  3. Phân biệt âm cuối “c” và “t”, “n” và “ng”, “oi” và “oai” không như giọng Thừa thiên, ví dụ “cắc” (bạc cắc) và “cắt” (cắt đứt), “tan” (tan nát) và “tang” (đám tang), nói “đen” chứ không “đeng”, và “nói” chứ không “noái”. Chúng tôi nói “rán” (cố gắng) chứ không nói “ráng.”
  4. Phân biệt âm “tr”và “ch”, ví dụ “trâu” và “châu” chứ không như giọng Bắc.
  5. Không phân biệt dấu hỏi dấu ngã và có xu hướng đọc thành dấu nặng.
  6. Có hai từ “bưỡi” và “bòng” để chỉ hai loại trái cây trông tương tự nhưng vị khác nhau.
  7. Lối nói đặc biệt: “Sợ bất chết”: sợ tới chết, rất sợ hãi; “Thương bất chết”: rất thương vân vân; “Thương hung lắm”: rất thương; “Giận hung lắm”: rất giận; “Sợ hung lắm”: rất sợ; “Đắt hung lắm”: rất đắt. Cũng còn nói “Thương dữ lắm,” "Sợ dữ lắm,” “Giận dữ lắm” vân vân.

Cuộc đời chóng thật. Tôi chưa đến tuổi thất thập cổ lai hy (xưa nay bảy mươi tuổi là hiếm) mà đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh tang điền biến vi thương hãi (ruộng dâu biến thành biển cả). Các tiếng Quảng trị quê mùa đó lúc tôi còn bé đã làm cho tôi ngượng chin người khi bị trêu chọc là le nhaque (thằng nhà quê, Pháp phiên âm tiếng Việt, có trong Từ điển Larousse). Mất đi các từ nhà quê đó không biết có đồng nghĩa với việc mất đi các từ cổ Việt Nam còn sót lại một thời trên dân làng quê tôi không? Giờ đây nghĩ lại, tôi cho rằng tôi đã đánh mất đi cả một truyền thống tổ tiên, cũng như bao người khác đã mất đi như vậy, để chạy theo một cái gì đó gọi là văn minh. 

Trần Hữu  Thuần
 jbtranthuan@hotmail.com


No comments: