Phương thức kè đá khai thác nguồn nước ngầm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và trồng trọt với nhiều điểm khác biệt, độc đáo ở vùng Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ đã và đang được nhiều học giả trong – ngoài nước quan tâm với các mức – góc độ khác nhau.
Trong loạt
bài chuyên khảo từ những năm 1937- 1940, nữ học
giả Pháp M. Colani đã có
những khảo cứu công phu và đi đến
một số kết luận
tổng quát về loại hình di tích này. Linh mục L.Cadiere - người
có nhiều nghiên cứu sâu sắc, toàn diện
về tín ngưỡng và văn hoá cổ ở các tỉnh
miền Trung cũng tham gia
tán đồng. Sau M.Colani,
nhiều nhà nghiên cứu Pháp, Liên Xô (cũ), Việt Nam cũng có bàn tới các di tích này. Tuy nhiên,
họ chỉ sử dụng
lại các tài liệu của M.Colani nên cũng không thể đi xa hơn được những
kết luận của bà (A. Masson 1960: 15; G. Coedes 1962: 129; L.
Bezacier 1972: 242-243; J.V Chesnov 1976: 61; Bùi Huy Đáp 1985: 11; Đào Hùng
1990: 129; Lê Duy Sơn
1991: 84…). Gần đây, Tạ Chí Đại Trường
với cách tiếp cận từ
nhiều khía cạnh, cách đặt vấn đề
đơn giản mà độc đáo hơn
đã đi đến một kết luận
mới và khác (Tạ Chí Đại Trường
1991: 48-61).
Những
vấn nạn của Tạ
Chí Đại Trường, những kết
quả của đợt khảo
sát tháng 3- 1992 đã gợi
ý cho chúng tôi rà soát lại
các kết luận đã đương nhiên được
chấp nhận và sử dụng
trong nhiều công trình
nghiên cứu trước kia cũng như gần đây.
Tựu
trung, các công trình nghiên cứu
đều xoay quanh ba vấn đề lớn:
1. Khảo
sát, khảo tả và phân loại các công trình khai thác nước.
Công đầu
trong lĩnh vực này thuộc về M.Colani. Bà đã tập
trung khảo sát trên địa bàn khá rộng, gồm các vùng đất
thuộc Vĩnh Linh, Gio
Linh, Cam Lộ từ năm 1912 đến 1940. Nhờ những nghiên cứu
công phu, tỷ mỷ của bà mà ngày nay chúng ta có các sơ đồ, số
đo, bản vẽ, ảnh chụp
… của những công trình khai thác nước này. Đến hôm nay những nghiên cứu ấy vẫn
còn giá trị. Vì do không
có điều kiện, hầu như
tất cả các tác giả khác đều dùng chúng như
tư liệu gốc. Mặt
khác, một số công trình đã bị phá huỷ, cải
tạo hay bỏ đi không dùng nữa (Vũ Triều Dương 1992: 18-27).
M. Colani đã dùng thuật
ngữ “Système” – (Hệ thống) để
chỉ các công trình khai
thác nước gồm nhiều thành phần
khác nhau, phân bố kiểu bậc thang. Một
“Système” hoàn chỉnh nhất – (hệ thống
Kình) theo bà bao gồm:
- Trên cùng là một
mặt bằng khô ráo.
- Phía dưới
là vũng[1] thượng (basin
supérieur) nhận nước từ trên cao xuống
qua các vòi bằng đá hay gỗ.
- Nước
từ trên vũng thượng chảy vào vũng chứa
(vũng nước sử dụng) – (basin d’alimentation). Đây là nơi lấy nước
ăn, tắm giặt.
- Nước
từ vũng chứa chảy xuống
vũng tháo rộng, bờ thấp, nước
đọng. Trâu bò thường uống nước
và đằm ở đó.
- Nước
từ các vũng trên theo trọng lực chảy
qua các lạch, dòng chảy (ruisseau, defluant) tưới cho các ruộng lúa, vườn tược ở
xung quanh.
Các mặt
bằng ở trên cao, các bể, lạch và dòng chảy
đều được kè đá với chủ đích định
hướng và giữ nước dùng cho sinh hoạt
và tưới tiêu. Ở một số
hệ thống, còn có các đường kè đá thành bậc dẫn lối
từ làng xuống.
Bà đã dùng thuật
ngữ “puits” – (giếng) chỉ những
hố hình tròn hay vuông lấy và chứa nước
ngầm, thành giếng được kè đá.
Theo M. Colani “puits” đơn
giản hơn “système” song không phải là giếng đơn
mà là giếng đôi kế tiếp nhau, nằm
trên mặt bằng dốc, theo nguyên tắc
bình thông nhau có lạch
hay dòng chảy dẫn nước ra ruộng.
“Système” và “puits” được
bà phân loại theo số lượng của
vòi chảy hay không vòi chảy [2] (M. Colaini 1940: 15-
31; 43- 56).
Tháng 7- 1937, M. Colaini đã đào một số
hố thám sát ở các mặt bằng
trên cao, mặt bằng quanh một số vũng, trên các con đường bậc
thang dẫn xuống các giếng[3] Đào, Kình, Đìa, Ông. Độ sâu các hố từ -0,4m tới
-1,25m, tính từ bề mặt hố
đào. Giếng Kình: 4 hố; giếng Đào: 5 hố;
giếng Đìa: 2 hố; giếng Ông: 4 hố.
Hiện vật thu được qua các hố
trên ít, đơn giản và khá đồng nhất, chủ
yếu là mảnh gốm, sành vỡ.
Trong báo cáo kết quả M. Colani đề cập tới
những mảnh gốm cổ,
gốm hiện đại song không cho biết
cụ thể. Tại một
hố giám sát ở giếng Kình, bà tìm thấy
trên bề mặt một số
đồng tiền niên hiệu Gia Long, Tự Đức, Thiệu
Trị; ở độ sâu -0,60m tìm thấy
một mảnh tiền đồng
khác không rõ niên hiệu.
Trong hố thám sát 5 của giếng Đào, tìm thấy
một vật hình nón trụ bằng đá, đáy là khối
hình chữ nhật mà theo M. Colani là dùng để dẫn nước
vào ruộng. Kết quả từ
hố đào số 5 tại giếng
Kình phần nào cho biết những người
xây dựng nó đã dùng các
khối đá chèn nền, củng cố
bờ tường (M. Colani, 1940: 29)[4].
2. Về
nguồn gốc và chủ nhân
Có ba ý kiến
lớn:
a. Ngoại
lai
Dùng các dấu
vết tín ngưỡng (tục thờ
đá, thờ cây, thuật phong thuỷ, mồ mả
cũ), đối sánh cách khai
thác nước vùng này với các phương thức thuỷ
lợi của người Việt
và người Chăm, dẫn các chứng cớ dân tộc
học của các tập đoàn thiểu
số vùng Assam ở đông bắc Ấn
và Indonexia, M. Colani kết
luận: Hệ thống thuỷ
lợi Quảng Trị “là thuộc
về một dân tộc lạ
(ngoại lai), chắc đã để lại
hậu duệ ở Quảng
Trị, nhưng là một số
rất nhỏ, đã bị chìm vào trong tổng
thể” (M. Colani, 1940:
39).
Theo M. Colani, cả
ba nơi Assam, Indonexia
và một phần Đông Dương vào một lúc nào đó thuộc vùng khai thác của tập đoàn nhân chủng
giống nhau. (M. Colani,
1940: 20). Tuy nhiên, chính bà cũng không biết
rõ hướng thiên di của các tộc người
đó, “Từ Đông Dương tới Indonexia hay ngược
lại”. (M. Colani, 1940:
214).
Linh mục
P. Cadière đưa ra các dấu vết còn lại
của một thương điếm
(emporium) có tên Phường
Hàng ở làng Mai Xá, bên cạnh trạm thuế
quan Cửa Tùng. “Emporium”
này đã bị ngập nước và còn thấy
chất đống các mảnh gốm. Nhà truyền
giáo này cho rằng những nhóm người đi biển đã tới đây từ
thời xa xưa và thâm nhập vào các vùng đất bên trong, chủ yếu theo hướng
tây nam. Ông còn cho biết
ở Cửa Việt cũng có một
“Emporium” tương tự, xong lại không cho biết nhóm người đi biển nói trên có qua đây không và
đi về hướng nào?
Ông cho rằng
“những người xây dựng (những hệ
thống) ở Gio Linh là những người đi biển
tới từ Indonexia (?) hay hậu duệ của
họ” (?). Song sau đó ông
lại phân vân “Những Emporium này có thể là của những
thương nhân khác nhau, mà
chắc chắn (hay có thể) có niên đại muộn hơn”
(M. Colani 1940: 41)[5].
b. Chămpa:
Quảng
Trị xưa là đất của
vương quốc Chămpa. Thư tịch cổ
cho biết đây từng là Ô Châu, Ma Linh châu của Chiêm Thành. Đó là gợi ý cho nhiều nhà nghiên cứu đương nhiên coi người
Chăm là chủ nhân của các hệ thống
khai thác nước này, song
cũng không có những giải thích hợp lý và chứng cớ cụ
thể (Bùi Huy Đáp, 1985:
11; Phan Ngọc Chiêu,
1989: 34; Đào Hùng 1990: 129; Lê Duy Sơn
1991: 84…).
c. Việt:
Tạ Chí
Đại Trường đã đưa ra một loạt
những phản biện xác đáng và hợp
lý về những giả thiết
và kết luận của M. Colani và những
người khác về nguồn gốc
Indonexia và sự thiên di.
Đồng thời trên một số kết
quả đào thám sát 3- 1937,
và đặc biệt sự kiện
1572 Nguyễn Hoàng đày tù
binh nhà Mạc lên vùng Cồn Tiên, ông đã đi tới một giải
đáp mà theo ông “khá giản
dị”: “Hệ thống thuỷ
lợi dùng cho sinh hoạt và nông nghiệp ở Gio Linh là của
những chiến tù 1572” (Tạ Chí Đại Trường,
1991: 57).
3. Niên đại
M. Colani không nói rõ thời
điểm cụ thể, theo bà có thể
là sau nền văn minh cự thạch, vào những
thế kỷ sau công nguyên (M. Colani
1940: 41).
P. Cadière cho rằng
thời gian kết thúc của các hệ thống
này là vào năm 1572, khi Nguyễn
Hoàng đày đám tù binh nhà Mạc
lên Cồn Tiên (M. Colani
1940: 209). Theo ông, dân Gio Linh lúc đó không phải là dân Việt
và giải thích sự tách biệt dân tộc của
hai thời đại trước và sau 1572 bằng
những dấu vết thờ
cúng ông Tiền (khai khẩn) là của dân tộc
trước và ông Hậu (khai canh) là của người Việt
đến sau (M. Colani 1940:
210)[6].
G. Coedès đưa
ra khung thời gian từ trước Công nguyên (Coedès 1962: 26). E. Bezacier thì
cho rằng thuộc sơ sử,
trước Bắc thuộc (Bezacier 1972: 252- 253). J.V. Chesnov lại đưa về
phạm vi văn hóa Đông Sơn (Chesnov, 1967: 61).
4. Cấu
trúc
Vùng đất
nơi phân bố các công trình khai thác nước thuộc cùng đồi
bazan Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ
phía Bắc tỉnh Quảng Trị,
có độ cao chừng 100m, diện tích tổng cộng khoảng
235 km2. Đá bazan ở đây bị phong hóa thành đất đỏ, nâu đỏ,
xám rất phì nhiêu. Khắp nơi là vườn
cau, dứa, chè, hồ tiêu… Hiện nay, còn trồng nhiều cây cao su. Dưới
chân đồi, ven sườn đồi là các ruộng
lúa bậc thang và phẳng. Đặc điểm
của đất ở đây là tính chất
giữ ẩm lớn. Đá bazan nằm
rải rác khắp nơi.
Chúng tôi đã đi khảo
sát được 21 địa điểm, nơi
có các công trình khai thác nước
tại các làng xung quanh
quanh núi Cồn Tiên- xã
Gio Linh, Gio An, khu vực
các làng Liêm Công Đông, Liêm Công Tây – xã Vĩnh Thành, Vĩnh Linh; xã Cam
Thành, huyện Cam Lộ và khu vực cồn cát thuộc
xã Gio Mỹ, Gio Linh (Vũ
Triều Dương 1992: 18- 27).
Trước
hết, để phân loại các công trình khai thác nước này, chúng tôi xin làm rõ một số khái niệm
sau:
- Hệ
thống bể lấy nước
và dẫn nước: gồm một
hay nhiều bể kè đá, lấy và chứa nước
mạch. Nước từ đó qua các mương
(rãnh) chảy tưới cho các ruộng lúa xung quanh.
Bể: xung
quanh có kè đá (không phải
đào) để hứng, lấy nước
của mạch nổi hay ngầm
từ sườn hay chân đồi.
- Hệ
thống giếng lấy và dẫn
nước: gồm hai giếng (giếng kép) kè đá, được
đào sâu xuống đất để lấy
nước mạch chìm trong lớp đất bazan. Giếng
kép này hoạt động trên nguyên tắc bình thông nhau. Các mương (rãnh) dẫn nước tưới
cho ruộng lúa.
Thực tế khảo sát cho thấy
các hệ thống giếng, bể
có những điểm chung giống nhau và một số nét riêng khác nhau:
+ Đặc
điểm chung:
a. Đều
được xếp bằng đá, chúng tôi nhấn
mạnh: xếp chứ không xây, không có hợp chất
liên kết (chủ yếu là đá bazan) và hệ
thống các bể hay các giếng nối với
nhau chặt chẽ theo chênh lệch về độ
cao lấy nước mạch. Hệ
thống bể lấy và dẫn
nước đầy đủ nhất
bao gồm (tính từ cao xuống thấp):
1. Trên cao là một
mặt bằng xếp đá, rộng
hẹp khác nhau. Trung bình
rộng khoảng 0,40- 0,50m.
2. Tiếp
đến là một bể nhận
nước (có nơi là một lạch
nước nhỏ). Bể này hứng
nước từ trong nguồn đổ ra. Mực
nước ở đây thường không quá 0,20m. Theo nhân dân địa phương không ai được
phép lấy nước ở đây. Chức
năng của bể này là lắng các tạp chất. Nước
từ đây chảy trực tiếp
hay qua vòi xuống bể dưới.
3. Bể
lấy nước sinh hoạt. Giữa bể
lắng và bể này thường có bức
tường ngăn bằng đất hay kè đá. Bức
tường này có thể coi là đập chắn nước
có tác dụng ngăn giữ nước ngầm
để có thời gian lắng đọng các tạp
chất. Nước từ bể
lắng xuống bể lấy
nước trực tiếp rỉ
qua bức tường chắn hoặc
qua các vòi dẫn nước bằng đá, gỗ,
thân cây cau. Có hệ thống có một vòi, có hệ
thống có 2, 3 vòi. Các
vòi bằng đá có hình bán
trụ, chiều dài trung bình là 1,30m.
Trên bề mặt có rãnh chảy dọc thân và chiều
ngang của rãnh là 1,10m.
Các vòi phần lớn đã bị vỡ,
gẫy, ít cái còn nguyên.
4. Một
bậc thấp hơn nữa
là bể chứa, nơi dân địa
phương tắm rửa, giặt
giũ… Bể này cũng được kè đá, thường có kích thước lớn hơn
bể trên, ở giữa thường
có các tảng đá làm nơi giặt, rửa.
5. Bể
tràn hay bể tháo, có kích
thước lớn. Nước đọng
lại như ao. Đây là nơi trâu bò ra tắm, uống nước.
Hiện nay phần lớn chúng đã bị
phá.
6. Hệ
thống rãnh (lạch, mương) dẫn
nước chảy từ bể
tràn ra ruộng lúa. Hệ thống này cũng được
xếp đá hai bên để tạo thành dòng chảy.
Xung quanh khu vực này hiện trồng rất
nhiều rau “liệt” (còn gọi là xà lách xoong).
b. Đều
thực hiện hai chức năng: Cung cấp nước cho sinh hoạt
và tưới tiêu.
c. Đều
cùng mục đích khai thác
nguồn nước ngầm. Kết
cấu của chúng phụ thuộc vào từng
loại mạch cụ thể
(ngầm hay nổi/phun).
d. Đều
lợi dụng đặc điểm
của dòng chảy tự nhiên theo chênh lệch
về độ cao. Thành phần cấu thành các hệ
thống nhiều hay ít là do độ dốc và trữ
lượng nước mạch quyết
định.
đ. Các hệ
thống, bể giếng tham gia điều
tiết nước bằng kỹ
thuật gia cố đá để giữ
nước theo kiểu tự động
dâng, tạo các rãnh dẫn nước bằng
đá. Đá sử dụng đều là đá có nguồn
gốc tại chỗ, phần
lớn không có dấu vết chế
tác. Kỹ thuật xếp đá, kè đá phù hợp
với những vùng có độ dốc để
không bị xói mòn và cuốn trôi.
Như vậy, phải chăng môi trường
tự nhiên (đặc điểm thổ
nhưỡng, khí hậu…) đã buộc cư dân ở
đây phải tìm cho mình
cách lấy nước hợp lý, sáng tạo
này?
- Những
điểm khác biệt:
a. Có loại
lấy nước mạch nổi,
phun và do đó bể lấy nước được
kè đá hoặc đắp đất trên bề
mặt; có loại lấy nước
mạch chìm chảy ngầm và do vậy
giếng lấy nước phải
đào sâu xuống đất.
b. Có loại
có, có loại không có vòi
dẫn nước.
c. Có loại
có cấu trúc phức tạp, nhiều
thành phần, có loại có cấu trúc đơn
giản (cấu trúc một bể, một
kênh dẫn nước; cấu trúc bể
đôi và kênh dẫn nước).
Việc
phân loại các công trình
khai thác nước ngầm ở vùng phía bắc
tỉnh Quảng Trị theo chúng tôi không thể dựa
vào số lượng vòi chảy như M. Colani đã làm. Tiêu chí đó không nêu rõ được đặc trưng
kỹ thuật và cơ cấu
xây dựng. Các hệ thống bể
có hay không có vòi chảy
đều được xây dựng theo cùng một nguyên tắc và chúng đều thuộc một
kiểu.
Chúng tôi thấy
rằng tùy theo nguồn mà những công trình này thuộc về
hai loại:
1. Hệ
thống bể xếp đá lấy
nước mạch ngang phun từ sườn, chân đồi.
Loại này có hai kiểu:
a. Có bể
lắng trước khi nước ra vòi chảy vào bể nhận
nước, rồi xuống bể
chứa, qua bể tràn và từ đây chảy ra ruộng
qua các kênh rạch. Điển hình là các “giếng” Kình, “giếng” Đào[7].
b. Nước
nguồn từ vách đồi luồn
qua các khe đá, tấm đá chảy thẳng vào bể
nhận nước (không có bể lắng) xuống
bể chứa, bể tràn hay từ
bể nhận nước qua hệ
thống kênh rãnh chảy luôn ra ruộng, ví dụ: “giếng” Ông, “giếng”
Cái, “giếng” Tép…
Như vậy, có thể thấy rằng
trong loại bể thứ nhất
này thì kiểu 1 là kiểu phức hợp,
kiểu 2 là kiểu đơn giản.
2. Hệ
thống giếng được đào sâu xuống
đất, được kè đá bao quanh với mục đích lấy
nước mạch ngầm. Đây là loại
bể kép, theo nguyên tắc bình thông nhau và có kênh,
rãnh dẫn nước tưới cho các ruộng
lúa xung quanh. Loại này
thấy có ở Gio Linh, Cam Lộ, song chủ yếu phân bố
ở Vĩnh Linh.
Các hệ
thống bể, giếng thường
phân bố ở vùng sườn hay chân đồi
đất đỏ. Khu vực xung quanh không có sông, suối, ao, hồ,… Toàn bộ trữ lượng
nước vùng Cồn Tiên nằm ngầm dưới
lớp đất đỏ (M. Colani 1940: 84). Trong khi đó, hệ thống giếng
ở Vĩnh Linh lại bám theo một dòng chảy mà người Pháp gọi
là sông Liêm Công Tây (M. Colani 1940: 43).
Những
hệ thống bể, giếng
trước hết cung cấp nước phục
vụ đời sống hàng ngày (đáng chú ý là có những quy định cụ thể,
nghiêm ngặt: lắng bể, lấy
nước sinh hoạt, bể chứa
nước tắm giạt, bể
súc vật uống nước…). Nước
dư thừa chảy qua hệ
thống kênh rãnh tưới cho các ruộng lúa, vườn rau. Chính đặc điểm đa chức
năng này tạo nên tính khu
biệt và độc đáo của chúng. Thông thường
những kênh rãnh từ các hệ thống
dẫn nước chảy thẳng
ra các ruộng (ruộng bậc thang, ruộng
trũng, phẳng quanh khu vực. Song, trong một số trường
hợp, nước của vài hệ
thống chảy dồn vào một
khe, khe này có tác dụng
điều hóa nước tưới. Ví dụ:
Khe Cừ nhận nước của
các “giếng” Ông, Bà, Voi,
Cái, Diềm. Ở một vài chỗ
còn có các ao hồ với những đập
bằng đất, đá, cây tập trung lưu lượng nước
như hồ Sen, ao Sara… Nước từ những
giếng quanh vùng Cồn Tiên còn chảy tưới cho một
số ruộng ở vùng cồn
cát ven biển. (M. Colani
1940: 28, bản vẽ LXVIII- trên). (Còn tiếp)
[1] Chúng tôi sử
dụng chữ vũng dịch từ
chữ “basin” của Tạ Chí Đại
Trường. Dân địa phương gọi
tất cả các công trình này giếng.
[2] Theo chúng tôi không thể
dùng số lượng vòi chảy làm tiêu chuẩn kỹ thuật
để phân loại các công trình khai thác nước này. Chúng tôi sẽ làm rõ thêm vấn đề đó ở
phần phân loại của mình.
[3] Để
tiện theo dõi, chúng tôi
sử dụng từ giếng
theo dân địa phương đang dùng để gọi tất
cả các công trình khai
thác nước trong vùng.
[4] Thực
ra không thấy có lớp gốm hiện
đại, được rải ra khỏi
làm đục nước, chắc bờ
như Tạ Chí Đại Trường
nhận xét (Tạ Chí Đại Trường
1991: 49).
[5] Rõ ràng là những
chỉ dẫn của P. Cadière mỏng
manh và không nhất quán.
Kết quả khảo sát của
chúng tôi ở Tùng Luật (gần Cửa
Tùng); Phố Hội (gần Cửa
Việt). Những địa điểm
ở các vị trí thuận lợi cửa
sông, ven biển cho thấy: có lẽ P. Cadière đề
cập tới những bến
thuyền (cảng thị), mà dọc
cửa biển miền Trung có không ít. Ở những
bến thuyền trên thấy tập trung nhiều
mảnh gốm, sành sứ Trung Hoa, Đại Việt, Chăm, niên đại
khác nhau.
[6] Việc
thờ cúng ông Tiền khai khẩn, ông Hậu khai canh không hề mang dấu vết
phân biệt chủng tộc, đây là tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên chung của người Việt.
[7] Như
phần trên đã nói, hiện nay dân địa phương gọi
tất cả các công trình này là Giếng, để tiện
theo dõi chúng tôi vẫn
dùng tên gọi đó đặt trong ngoặc kép; còn nếu không trong ngoặc kép thì hiểu là loại đào sâu xuống
dưới đất.
Lâm Thị
Mỹ Dung
(Bài đã đăng ở
tạp chí Khảo cổ học
số 2 năm 1993, trang
67-79)
Hình minh họa
Một giếng đã bị sang sửa
lại
Giếng
Đôộng Trong, Gia Môn, Dốc Miếu
Giếng
xây bằng gạch Chăm Ngõ Vĩnh
Bến
Mai Xá Chánh
Gốm
tìm thấy ở Bến Mai Xá Chánh
Nguồn:
baotangnhanhoc.org (Bảo
Tàng Nhân Học – Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Hà Nội)
1 comment:
Bài chia sẻ hay quá!
Nếu có nhu cầu mua máy bơm giếng khoan, bơm hỏa tiễn chính hãng của DAB nhập khẩu hoàn toàn từ Ý. Là thương hiệu nổi tiếng và uy tín trên thế giới thuộc tập đoàn Grundfos. Vui lòng click Báo giá máy bơm nước giếng khoan tại TPHCM"
Post a Comment