Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, September 25, 2008

THÁI ĐÀO - LOÀI HOA TRẮNG



Loài hoa trắng
Truyện ngắn


Họ đã đi rồi. Những người từng cưu mang tôi một thời đã bỏ đi Mỹ theo diện HO rồi. Tôi một mình lang thang trở về lều chợ. Con Khờ đứng ở cổng chợ chờ tôi. Nó đưa tay vẫy vẫy. Bây giờ người thân thích còn lại của tôi la nó, con mắt nó cũng đượm buồn. Nó đưa mắt hướng về đường cái, quốc lộ. Tôi hiểu, nó cũng xót xa vì những người ra đi.


Con Khờ đưa cho tôi những củ khoai luộc chín. Tôi lắc đầu. Sáng nay dì tôi cũng bới theo những củ khoai luộc chín. tôi thấy hai bàn tay chìa ra với những củ khoai sao mà giống nhau lạ. Có cái gì của nỗi u buồn và cay cực, có cái gì của sự hao hụt và cam đành. Cầm lòng không đậu, tôi nắm lấy tay nó đặt lên ngực tôi. Tim tôi đập trong nỗi thổn thức của bàn tay nó run run.


Đã sống lâu với con Khờ trên bãi chợ của phố huyện này nên tôi hiểu nó. Tôi thương nó. Nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy cần nó như sáng hôm naỵ Sáng hôm nay tôi bơ vơ, lạc loài. Sáng hôm nay tôi thực sự chẳng còn ai ngay trên quê hương xứ sở của mình. Tôi chỉ còn mỗi con Khờ là người thân thiết. Tôi nắm lấy tay nó mà mặt còn ngó tới đâu đâu. Ngó tới tít tắp con đường, nơi những người từng cưu mang tôi rũ bỏ xứ sở ra đi.

- Đừng có khóc, để tôi kể chuyện cho anh nghe.

- Ừ kể đi, lại chuyện đời xửa, đời xưa.

- Không. Xí quẹt vào chuyện đời xửa, đời xưa. Chuyện sáng hôm nay hay hơn nhiều.

- Ừ... kể đi.

Nó mím môi, ngoảnh đầu chỉ về phía ngôi nhà gạch bên hông chợ. Tôi hiểu nó nói đến thằng quân sư quạt mo chạy mánh, kiếm rượu, kiếm thịt phường chợ búa.

- Hắn làm gì ?

- Đổi một bộ tam sự bằng đồng có ba chục lon gạo của một người mới từ vùng ngoài chuyển vào. Bây chừ hí hứng trúng quả.

- Rồi sao nữa ?

- Khi đổi lão chê đại nhưng người ta cúi đầu mà đổi. Bây chứ, hắn đang đánh bóng lại, hả hê đặt lên bàn thờ nhà hắn. Hắn gật gù ăn ý lắm.


Tôi cưới ngao ngán mà không nói gì. Tôi biết con Khờ cũng ghét hắn. Cái thằng không biết nên nết. Cặp mắt dê cụ chăm nhìn đàn bà con gái thiếu đường muốn lột hết quần áo người tạ Bao nhiêu lần nó đã nhổ toẹt nước miếng vào mặt hắn, coi khinh. Thế mà hắn vẫn cười khề khề, thích thú ngắm nhìn cái thân thể nở nang mới lớn của nó.


- Hết chưa ?

- Chưa.

- Thằng Hải Râu đồ tể lại vớ bở, mua rẻ mấy con lợn bự chác.

- Cũng của mấy người chuyển nhà...

- Ừ, bây chừ bọn chúng đang nhậu mừng trúng mánh.

Tôi chọc nó.

- Em nhập hội trúng quả với nó đi !

Nó bĩu môi dài thượt :

- Xí quẹt.

Tôi chăm chú nhìn nó. Nó mang tiếng là con Khờ nhưng bao giờ nó cũng sạch sẽ. Sáng nào nó cũng có mặt ở chợ này. Nó đón tôi. Cười với tôi. Phường kẻ chợ đã cặp đôi tôi với nó. Một thằng quét chợ và một con khờ sống giữa chợ. Điều đó cũng được thôi ! Cái đáng nói là lai lịch của nó. Một lai lịch mịt mờ, khó lần ra gốc gác. Một lai lịch thâm u, buồn bã, khó để biết được cội nguồn.

Có lẽ nó là kết quả của một mối tình vụng dại nào đó. Hay là quả trái của một trận hứng tình nào đó của một thằng cha và con mẹ nào đó, để rồi bê nó ra vất bên bờ sông mặc kệ với cuộc đời trắng đen, trong đục thế nào. Nó được một mụ già ăn xin, cô độc nhặt được. Mụ già đem nó về nuôi. Và nó thừa hưởng của mụ ăn xin đó cái vốn liếng ăn mày, nghèo kiệt. Suốt từ tuổi thơ đến khi chập chững bước vào đời, nó vẫn chỉ là con Khờ đi giúp việc kiếm ăn giữa chợ. Mụ già chết. Nó tứ cố thân cộ Nhưng bãi chợ vẫn là quê hương xứ sở của nó.

Tôi nhìn nó. Nó cúi đầu bẽn lẽn. Tay nó vân vê cánh hoa trắng. Cái cành hoa này tôi nhặt được ở cửa hàng bách hóa năm xưa. Không biết để làm gì, tôi đem cho nó. Và nó giữ mãi, nó đeo lên tóc, lên ngực cho đến tận bây giờ.

Nó nói nhỏ nhẹ :

- Cái hoa trắng này khi nào cũng đẹp.

Tôi gật đầu đồng ý với nó, dẫu cái hoa trắng kia là hoa nhựa.

Bỗng dưng nó đập nhẹ vào vai tôi, má ửng hồng lên rồi chạy vụt đi. Lòng tôi cũng có chút gì mang mang về nó. Tôi đưa mắt nhìn theo.


2


Khi những người từng cưu mang tôi ra đi, tôi không còn ngôi nhà nào để trở về nữa. Làng quê tôi bên kia dòng sông, nơi bạt ngàn một màu lau trắng.

Ngày ngày tôi qua sông để lên bãi chợ bằng một con đò. Nhưng từ nay bãi chợ là nhà. Tôi không còn nơi chốn để trở về. Trước khi đi, dì tôi cho tôi hai chục đồng phòng khi có cơ sự. Bây giờ, tôi trở về khu bãi chợ của tôi. Thật khó có ai cưu mang, bao bọc được ai. Lòng đau nhưng phải đành lòng làm vậy. Tôi sống bằng nghề quét rác, làm vệ sinh chợ. Tự tôi nuôi tôi bằng những hạt cơm nghèo khó. Ai gọi gì tôi cũng làm giúp : bổ củi, gánh nước, lợp nhà, che quán, sử quán, đắp nền...

Từ đây, đêm đêm tôi ở lại trên bãi chợ. Và tôi cũng cảm thấy thân phận mình cũng thuộc loài sống vô gia cư và chết vô địa táng. Hàng đêm, giữa những lều quán xiêu vẹo tả tơi, tôi nằm gác tay, ngửa mặt nhìn trời, đăm chiêu nghĩ ngợi.

Chợ một thời bị bỏ bê, thu hẹp cho nó tả tơi rách nát. Nhưng rồi người ta cũng phải chui vào đó để đổi trao, mua bán. Bởi vì, còn sống còn ăn, còn tiêu dùng, còn may mặc thì phải còn bãi chợ dù dưới dạng này hay dạng khác, cao cấp hay bần hàn. Còn khu chợ thì tôi còn sống được. Tôi cảm ơn nó và tôi thù ghét ai đòi phá chợ.

Chợ là nhà cửa của tôi, là đất thánh của cõi hồn tôi, là chốn vĩnh hằng của cuộc đời ghẻ lạnh, côi cút, đơn độc của tôi. Tôi ngồi ngậm điếu thuốc phì phèo trên môi. Con Khờ mang tới cho tôi bát nước chè xanh với mấy củ khoai luộc. Nó lại mỉm miệng cười.

- Sao lại không ăn cơm. Ăn khoai mãi thế ?

Nó lắc đầu :

- Không đủ tiền ăn cơm.

Tôi cảm thấy tôi nghiệp cho nó. Nó vừa đi hát dạo vừa đi xin, vừa phụ việc cho những người buôn bán giữa chợ. Đồng tiền nó kiếm được cũng ít ỏi như những đồng tiền tôi kiếm được. Nó hào phóng với tôi bằng tất cả tấm lòng nó. Nó khờ dại chốn chợ đời mà chân chất chốn trái tim. Tôi thương nó như thương một phần thân thể của tôi, một phần rách nát, tả tơi của số kiếp tôi. Tôi chụm đầu với nó, ăn những bữa ăn nghèo khó. Tôi thấy cay nồng mùi vị hạnh phúc góp nhặt giữa chốn trần ai. Tôi thấy thảm cỏ hạnh phúc của mình nhiều lắm cũng chỉ chừng ấy thôi mà bao la, bất tận...

- Cả ngày nay anh ngồi thừ... đau phải không ?

Tôi gật đầu chỉ vào trái tim mình. Nó gật đầu và hiểu.

Ngôn ngữ của hai chúng tôi vỏn vẹn chỉ có thế. Ngắn ngủi vài dòng mà bề dày, bề sâu thì vô kể. Con Khờ đưa cành hoa trắng trên mũi. Nó hít hà mùi hương tưởng tượng :

- Em giữ nó suốt đời em...

- Vì sao ?

- Vì của anh tặng em.

Tôi lại lặng người đi và ngồi nhìn cái thân thể mới lớn của nó. Có lẽ cũng gần kịp tới hai mươi. Tuổi của một người con gái vào đời, ươm mộng. Nhưng mà với một con Khờ thì cái một nó ươm là gì nhỉ ? Có lẽ cũng như tôi thôi. Một thằng quét chợ, quát tàn hết rác rưởi một ngày rồi ngồi thở dốc, nhìn khói thuốc baỵ Nó sẽ nhảy múa ăn xin, quàu quặt giúp việc cho những người buôn bán, tàn hết một ngày rồi thơ thẩn dạo bờ sông.

Tôi cười nắm tay nó.

Nó gật đầu và im lặng nhìn sâu vào trong mắt tôi.

- Thằng trấn lột đêm qua lại được mánh.

- Vụ gì ?

- Mấy người buôn lậu hàng Lào về, họ tắt đường qua khé Rú bị bọn thằng trấn lột mai phục cướp sạch hàng.

Nhắc đến thằng trấn lột là tôi nổi gai ở xương sống và khó chịu ở trong người. Nghe đâu xưa kia nó là võ sĩ, đã từng thượng đài, đấu đá mấy trận ở miền Trung và miền Nam. sau một thưở kỳ hồ, lang bạt, bây giờ hắn trở về quê hương xứ sở của hắn. Người ta nể danh tiếng thưở xưa, mời hắn ly trà đá, chén rượu, bữa nhậu... Hắn đổ đốn bởi thói hoang đàng xưa cũ, bắt đại những thằng có máu mặt. Hắn mời vào quán nhậu, nhưng chưa một lần hắn trả tiền cho những mâm nhậu kiểu đó. Người ta kiềng mặt hắn mà vân anh anh, em em với hắn. Hắn xâm đầy mình những hình đàn bà ở truồng. Thỉnh thoảnh hắn đánh quả áp phe hay trấn lột gì đó rồi trở về hiền từ ngồi bên gốc quán với be rượu nhìn đời mặc kệ trôi qua.

Tôi ghét cái bản mặt của hắn. Nhưng mà sợ hắn. Hắn có thể đấm một quả đấm đến tan xương nát thịt người tạ Hắn trấn lột ngay cả tôi. Thỉnh thoảng hắn rờ nắn túi áo, túi quần của tôi. Có đồng nào hắn bảo tôi đi mua rượu đãi hắn. Tôi thù hắn mà không làm gì được.

Nghe con Khờ nhắn đến hắn, tôi lắc đầu :

- Kệ chúng, đừng xí vào chuyện chúng mà chết !

Con Khờ lè lưỡi ra giễu tôi rồi cười khì khì.


3


Vầng trằng như vỡ ra, xác trôi bềnh bồng trên dòng sông lạnh ngắt. Tôi ngồi gục đầu bên dòng sông. Mặt tôi sưng húp bầm tím. Thân xác tôi rã rời, mệt lả. Cổ họng tôi khô đắng. Tôi ngó mãi dòng sông trôi...

Tôi ngó mãi xác con trăng bồng bềnh. Cái màu vàng ủi trôi lên dạt xuống như muốn tấp vào bờ, như muốn xô dạt ra xa làm tôi kinh hãi. Tôi tưởng như xác con Khờ còn đâu đó trong dòng trăng tan nát. Nó chết rồi. Nó nhảy xuống dòng sông. Thân xác nó người ta vớt lên và chôn cất ngày hôm qua, nhưng mà với tôi, mãi mãi nó vẫn còn đâu đó trên bến chợ, trên bãi sông và dật dờ ẩn hiện trước mặt tôi.

- Khờ ơi ? Tôi là thằng tồi. Tôi là một thằng không xứng đáng làm đàn ông.

Bỗng dưng tôi muốn khóc, khóc cho vơi nỗi buồn. Khóc cho dịu cơn đau...

Bọn chúng có ba thằng say rượu, đã thay phiên nhau hãm hiếp con Khờ ngay trước mặt tôi. Tôi là một thằng đàn ông không làm gì được để cứu nó. Tôi còn bị chúng đánh cho nhừ tử để đến bây giờ những vết bầm vết tím vết sưng còn mưng mủ trên da thịt và ngay cả trong cõi hồn tôi.

Tôi vò đầu vào hai bàn tay chảy máu.

Hai hàm răng tôi nghiến lại. Tôi muốn cắn nát cả cuộc đời, cắn nát cái đêm ô nhục đau thương. Vù vù bên tai tôi tiếng gió. Tiếng gió đập lên lều quán xiêu vẹo tả tơi. Con trăng bị đám mây che khuất. Mưa phùn rơi lất phất. Tôi choàng thức dậy bởi tiếng la của con Khờ. Tôi vùng dậy chạy tới cái quán nước của người đàn bà què, bán nước chè xanh để sống qua ngày ở góc chợ. Hôm nay bà về quê để tiễn những người bà con thân thích đi vào Nam. Con Khờ ở lại một mình. Hồi hôm tôi đã ngồi kể chuyện đời xửa đời xưa với nó ở đó. Nó đuổi tôi về khi khu chợ đã vào khuya. Tôi bâng khuâng ra về, và chui vào cái sập hàng của mấy mụ hàng rong. Tôi nằm bên những thùng ruốc thùng mắm mà ngủ.

Tôi thức dậy và nghe rõ ràng là tiếng la của con Khờ. Nhưng bây giờ nó có vẻ khác lạ; như ai đó đã bịt mồm bịt miệng nó lại và nó cố chống trả. Tôi lao thẳng tới đó. Và kịp khi tôi xông vào, một cú đấm như trời giáng nện xuống vai tôi. Tôi ngã sấp. Mặt đập vào nền chợ. Máu mũi chảy ra. tôi kịp nhìn lên và thấy bọn chúng. Thằng võ sĩ chuyên nghề trấn lột. Thằng đồ tể mổ heo. Và thằng bán hàng rong lẻo mép, theo đóm ăn tàn chuyên tiêu thụ hàng gian phi.

Bọn chúng đang lột hết quần áo con Khờ ra. Bọn chúng dận khăn vào miệng con Khờ cho nó hết la hét. Bọn chúng, thằng cầm tay, đứa cầm chân dằn ngửa con Khờ ra trên cái nền đất xám xịt. Tiếng con Khờ thở dốc, vùng vẫy. tôi nghiến răng vùng dậy. Một cú đá làm tôi bật ngửa. Thằng võ sĩ giọng lè nhè mùi rượu :

- Nằm yên, nhỏ. Tao đập bể họng mày bây giờ.

Và hắn đạp một chân lên cổ họng tôi đến nghẹt thở.. Tôi đã biết giá trị bàn chân của hắn. Tôi đau đớn phẫn uất. Cả vùng da thịt con Khờ phơi bày ra trắng toát, phì nhiêu như một vùng châu thổ. Ôi những đứa mất nết, đốn mạt, dâm bôn. Ôi những đứa phi luân, mất dạy. Một lũ cường đồ chè rượu. Nó phá nát cái thiên đường ngà ngọc của tôi. Nó biến miền đất hứa của tôi thành vũng sâu đọa lạc. Nó làm tôi điêu đứng khổ đau. Tôi thà chết với nó. Tôi đạp tung hai chân và vùng dậy. Nhưng lần này lại là thằng đồ tể. Nó đá ngược tôi với một tuyệt chiêu như từng vật bò, hạ heo. Nó dí vào miệng tôi mũi dao nhọn :

- Tao sẽ thọc hết con dao này vào miệng mày như thọc heo vậy.

Mồ hôi vã ra. Mũi da dí vào miệng tôi đụng tời bờ răng. Hắn là chuyên gia giết mổ. Có bao giờ ghê tay một cú đâm thọc đâu. Tôi trở nên bất lực, yếu hèn, nằm im thin thít và khổ đau nghe tiếng thở phì phì của bọn chúng và tiếng nấc tức nghẹn của con Khờ.

Sau cùng thằng bán hàng rong, loài theo đóm ăn tàn, giải quyết việc tôi, hắn nện vào mặt tôi một đấm. Bình thường hắn là thằng ốm o, nhu nhược, nhưng khi có cơ hội, theo bè, theo cánh, đánh hùa, đánh hôi thì hắn là một thằng ác độc, ti tiện nhất. Hắn đấm thẳng tay và liên tục. Hắn vừa đấm vừa lè nhè :

- Mày phải biết giữ kín chuyện này, lép bép là tụi tao làm thịt mày không thương tiếc.

Tôi muốn rên lên mà không được, một thằng lấy giẻ bịt miệng tôi. Nó cũng lột hết quần áo của tôi và vất nằm bên con Khờ, để cả hai trần truồng như nhộng. Đó là kế nhằm đánh lận con đen, gây hỏa mù với thiên hạ.

Tôi biết được ý đồ đen tối của nó. Tôi gắng đau lết dậy khi chúng đi rồi. Trên vùng ngực hoen ố, nát tan của con Khờ tôi bỗng bật khóc, tấm tức như một kẻ mất hết gia tài vốn liếng của đời mình. Tôi đau xót lau chùi những vết máu lấm với đất bùn nhơ bẩn, hoài thương trinh tiết một đời người.

Phương đông hừng sáng. tôi đắp cho con Khờ những manh áo còn sót lại. Nó khóc nức nở mà không nói gì. Tôi lần mò ra bờ sông, rửa mặt, rửa những vết thương bầm tím.

Ba ngày liền con Khờ im lặng không tha thiết gì đến chuyện ăn uống. Nó lảnh tránh tôi. Nó không còn đem đến cho tôi những bát cơm, những củ khoai, những miếng kẹo, những bát nước chè xanh. Ba ngày liền nó thẩn thờ tìm kiếm trên khắp nền đất chợ, trong những đống rác. Nó bươi cào. Nó lục lọi. Nó kiếm tìm cái bông hoa trắng mà trong cái đêm khốn nạt đó, lũ cường đồ đã làm tan nát và ném mất đi đâu. Nó rầu rĩ, lặng câm như người mất trí. Nó không còn hát, còn ca, còn ngửa tay xin tiền như mọi bữa. Tôi đau khổ ngồi nhìn nó. Tôi và nó không có đứa nào dám nghĩ đến chuyên thưa báo với chính quyền. Chúng tôi làm thế nào mà thưa kiện được chúng nó.

Tôi ngồi xua đuổi những con ruồi, con nhặng bay vo ve trên những vết mưng, vết mủ. Ba ngày liền tôi cũng không đói. Nhưng cái đang hành hạ tôi lúc này là tôi không biết làm sao an ủi được con Khờ.

Sáng hôm qua tôi lên cửa hàng bách hóa, tìm mua một cành hoa trắng đẹp nhất. Tôi tìm nó ở sau bãi chợ và trao cho nó, thế cái bông đã mất. Nó lắc đầu :

- Không phải cái bông này. Cái này là đồ "dỏm".

- Cái kia cũng bằng nhựa mà.

- Nhưng anh đã cho em đã hai năm rồi. Hồi đó anh dễ thương và thương em lắm. Em giữ nó mãi. Không cái nào thế được đâu.

Tôi lặng người đi :

- Nhưng cái này cũng của anh cho em mà.

Nó lắc đầu :

- Anh bây chừ không phải anh hồi xưa. Có mỗi cái bông hoa trắng mà không giữ được cho em. Thằng đồ tể nó giữ cho con vợ béo ủ của nó cả tòa nhà. Thằng thầu khoán nó giữ cho vợ nó cả áo đầm, xe cúp, tivi, tủ lạnh.

Tôi nói như phân bua, giải bày :

- Nhưng mà... Em cũng thấy anh bị chúng đánh đến tả tơi.

Nó gật đầu và ứa nước mắt :

- Tội nghiệp cho anh, nhưng mà cái bông trắng đã mất rồi !

Và nó bỏ đi. Tôi đứng sững nhìn theo. Nó tiếp tục tìm kiếp suốt ngày hôm đó. Nó như kẻ khất thực đi xin lại loài hoa trắng giữa thế gian. Nó sầu não. Nó đau thương. Nó hỏi thăm khắp phố chợ. Có ai bắt gặp được bông hoa trắng của nó không. Người ta ngỡ ngàng. Người ta ngạc nhiên. Và người ta hiểu rồi ái ngại cho nó, buồn bã cho nó.

Nó như kẻ hành hương cô độc, lặng lẽ tìm về xứ sở của loài hoa trắng.

... Cho đến buổi chiều, khi ráng chiều ối đỏ cả trần gian và mặt trời như đẫm máu, nghiêng về phương tây chở dẫn đô... thì nó nhảy xuống dòng sông. Nó tuyệt vọng vì sẽ không bao giờ tìm được cho mình bông hoa trắng của cuộc đời. Nó đã đi tìm bông hoa trắng trong dòng sông và trong cõi chết...

Bây giờ chỉ còn lại mình tôi giữa bãi chợ hoang vắng này.

Như một tiền oan nghiệt báo, như một số phận khốc liệt phải đeo mang. Cái bóng con Khờ và đôi mắt buồn thăm thẳm, mãi ám ảnh tôi. Tôi như bị mê hoặc từ một cõi xa xăm. Tôi như bị một ma lực từ cõi chết dội về, hút lấy, tung vào một cuộc kiếm tìm hoài mãi...

Thế là tôi đi. Tôi đi mãi trong mỏi mòn, kiệt sức. Người tôi xiêu đổ trên đôi chân ốm yếu. Trí tôi hoảng loạn trong mịt mù sinh tử đời người. Nhưng không bao giờ tôi được quên. Loài hoa trắng và nụ cười bát ngát của con Khờ. Tôi phải tìm nó ở dưới vực sâu, ở trong đọa lạc, hay ở giữa trời cao...

Tôi đã kiếm tìm đến kiệt sức.



READ MORE - THÁI ĐÀO - LOÀI HOA TRẮNG

Wednesday, September 24, 2008

HỒ SĨ BÌNH - CHÙM THƠ


Quê quán : Triệu Thuận, Triệu Phong, Quảng Trị
Trước 1971: Học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị
Sau 1975 : Tốt nghiệp ĐHSP Huế, khoa ngữ văn
Hiện sống tại Đà Nẵng



Quay về

Sao tôi phải quay về
nơi phia ấy một rừng châu chấu
đường thôn chân trần ướt đẩm sương
cảm giác quen
buốt vào trí nhớ
nơi truông rú ao đầm mênh mang cỏ dại
con cò nghiêng chao
cò còn bay là đất trời trăm năm không đổi
nước dưới ao còn nương bóng chim tăm cá
nhận ra mình rơm rạ tuổi mười ba
bên bếp lửa chật chội
chị em ngồi sát vào nhau cho đủ chỗ
nhức tới xương rét cong mái lá
miên man chuyện đời xưa
rét căm căm đường làng chạy nhanh cho ấm
rét chi rét lạ rét lùng
mấy chục năm rùng mình lẩy mẩy.
chén rượu gạo chuyền tay có mùi khê
rượu mình nấu còn vương củi trấu
vô tình thấm vào vị giác
chênh chao niềm trắc ẩn
thằng bạn thời bắt ốc mò cua chôm gà trộm bưởi
giờ hom hem ngồi uống rượu suông
mưa nắng gạo cơm phập phồng mưa lũ
mọi chuyện ú ớ vật vờ cũng chỉ chiêm bao
những ngôi nhà trước cau sau chuối
trưa vắng buồn không chịu nỗi
con chó cong mình nằm ngủ
mấy ả tan chợ mai về líu ríu ngoài đê
gió nồm táp vào mái lá
phừng phực giận dỗi
chuối sau vườn lao xao bóng ai lẻn vào cửa sổ
tự dưng ngồi nghĩ chuyện vu vơ
đêm tối ngoài hiên
đượm nồng hương đồng hương bưởi
đã đời uống rượu tới khuya
con nhái con ếch làm bạn
trăng sáng chi khuya chén rượu óng màu bạc
cha mẹ không còn anh em đi hết
mộ ông mệ ngoài đồng cỏ lau chi chít
nhà cũ trường xưa bom dội tan hoang
đôi khi ngờ ngợ
đã lâu quen mùi phố xá
vợ con ngồi chưa kịp nóng đít đòi đi
sao cứ muốn về
sao cứ muốn về
bên ngõ vắng.




Một nửa Ban Mê


Có một Ban Mê
từ cây số 3 về ngã năm thành phố
lóc cóc tiếng ngựa thồ
như kim đồng hồ gõ vào trưa vắng
lả chả hoa phượng tây vàng
đong đưa mùi tóc rất Huế
đã hẹn thầm phố núi và em

ngôi nhà thường xuyên khép cửa
góc phố nhiều người qua
nhưng từ lâu tắt lửa
không một người thân
em ngồi giữ nhà giữa đồ đạc ẩm mốc và bóng tối
đơn độc thiếu vắng bạn bè
cây dương cầm không ai đánh thức
còn vang mãi vọng âm buồn
muốn giữ lại thời gian em thả trôi bong bóng về những điều quá vãng
những gì đáng quên em vẫn giữ lại
mụ mị cả tháng ngày
phía trước còn chông chênh mù mịt
đừng cõng mãi trên vai nỗi đắng cay không cần chia sẻ

đã bao lần ghé qua rất vội
tôi mở toang cánh cửa sổ
cho nắng gió tràn vào
đến bên em chia một nửa nổi buồn
muốn nhìn vào mắt em với niềm hy vọng
dù không dễ, cả chút niềm tin
vây quanh biết bao trắc trở
những bông hoa ngụy tín
không dễ gì bị đánh lừa bởi lời rao giảng

chúng ta còn quá trẻ
đắm đuối nổi buồn chưa kịp nhận ra
để bước qua giới hạn
chân trời còn mở cửa
con đường rừng vẫn muốn một lần đi hết
sau cỏ gai, những mùa hoa phải đến lúc đáo kỳ

tôi sợ sự nhàn rỗi
sẽ nuốt trôi niềm hy vọng
không chỉ một nửa nỗi buồn
đấy là điều ấp ủ cùng em
không thể bắt đầu không thể kết thúc
tháng năm xa mịt mù chao đảo
ái ngại đời mình, còn một nửa, phía ấy Ban Mê.

HỒ SĨ BÌNH
2008





READ MORE - HỒ SĨ BÌNH - CHÙM THƠ

Monday, September 15, 2008

Võ Văn Hoa


VÕ VĂN HOA
Sinh ngày: 15-4-1954,
Quê quán: Thi ông, Hải Vĩnh, Hải Lăng, Quảng Trị,
Hiện là phó trưởng phòng Giáo Dục& Đào Tạo huyện Hải Lăng, Quảng Trị.
Hội viên hội VHNT Quảng Trị.
Email: vovanhoahl@yahoo.com,
Blog: 360.yahoo.com/vovanhoahl
Tel: 0914127685


Các tặng thưởng, giải thưởng:

- Giải 3 cuộc thi văn học, tạp chí Cửa Việt, 1996, 1997.
- Giải thưởng phóng sự “Những bác sĩ của ruộng đồng”, Báo Quảng trị, 1998.
- Giải 2 câu đối hay toàn quốc, VTV, 2003.
- Giải thưởng sáng tạo văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, 2004.
- Giải B tập thơ “Còn ta với mình”.
- Giải thưởng cuộc thi “Kí ức học đường”, báo Khuyến Học & Dân Trí, 2005.


Tác phẩm đã xuất bản:

· CÒN TA VỚI MÌNH, tập thơ, NXB Thanh Niên, 2004.
· VĨNH ĐỊNH ƠI TA VỀ, CD thơ phổ nhạc, 2006.
· GIÓ CUỐN MẶT SÔNG, tập thơ, NXB Thuận Hoá, 2008

Và nhiều tác phẩm in chung trên nhiều tạp chí , giai phẩm khác.





Bão


Vắng âm thanh những chú ếch đồng
Những giun dế côn trùng muôn thuở
Đêm thị trấn mùa mưa đầu khó ngủ
Sao nhớ hoài da diết một vùng quê!


Nhớ cuống rạ dấu chân người lặn lội
Mùi cốm thơm trên nẻo đường làng
Dáng mẹ hao gầy vào ra sớm tối
Gậy khua vào bảng lanngr hoàng hôn


Cơn mưa đầu mùa xối xả ngoài hiên
Có một người trong tim bão nổi
Tôi đi ngược phía chiều gió thổi
Cõi lòng ơi! Sao dứt thuở đi về!





Thơ tình



Đừng nói gì nữa em
Để dành cho nỗi nhớ
Đừng nói gì nghe em
Trong cồn cào hơi thở


Em là đoá mây trời
Bốn mùa qua đỉnh núi
Bốn mùa trải gấm phơi
Anh cay xè sống mũi


Có phải từ bao giờ
Vân vê tà áo mỏng
Cánh chuồn bay trong thơ
Cũng ngân vang tiếng sóng


Anh từ nỗi đau xưa
Quên sao ngày xa vắng
Gom đan từng giọt nắng
Cho-bà-Hoàng-lên-ngôi !





Ra phố



Tháng giêng một mình ra phố
Nhìn hoài sắc áo ai bay
Xanh mướt vườn xuân hương cỏ
Đong đưa cây trái như bày !


Tháng giêng một mình ra phố
Anh trông về phía mắt buồn
Cô bé ngày xưa lạ thế !
Nhủ lòng muốn tặng nụ hôn.


Tháng giêng, trời khéo chiều người
Anh về cuối phố “tầm xuân” !


09-01-1998





Chớp bể



Người đi rừng nhìn từ phía bể
Nhà nông nhìn tổ kiến trên cao
Anh yêu em nhìn từ đôi mắt
Tinh cầu nào ở cuối trời sao?


Mưa nguồn, trong anh có từ chớp bể
Có mùa xuân vàng trắng bao giờ !
Ta đã đi qua những ngày như thế
Xuôi về em năm đợi tháng chờ !


Tượng đài trong em xây bằng vỏ ốc
Ta sơn nhân gió lộng trăng ngàn
Em hoang hoải trên thuyền độc mộc
Ta tìm về ánh chớp một dung nhan…


27-30-01-2008





Bồng bềnh cơn mây



Đi suốt đôi bờ nắng hạ
Bông bềnh, bồng bềnh cơn mây
Thương ai một thời hoá đá
Muôn đời mây trắng bay bay…
Bồng bềnh, bồng bênh, bồng bềnh
Anh ngước nhìn trời, nhìn đất
Có em tình yêu đích thực
Vĩnh hằng mây trắng thôi bay…


Hải Lăng, tháng 6-1993

Nguồn : Trích từ tập thơ GÍO CUỐN MẶT SÔNG, tác giả Võ văn Hoa, NXB Thuận Hoá, 2008
READ MORE - Võ Văn Hoa

Nguyễn Quang Lập


(Các bút danh khác: Hồng Nhật, Hồng Đức, Quang Quang)

Tên khai sinh: Nguyễn Quang Lập, sinh ngày 30 tháng 4 năm 1956, tại thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hiện nay ở Hà Nội. Tốt nghiệp đại học Bách Khoa. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1987)
Nguyễn Quang Lập tốt nghiệp đại học Bách Khoa năm 1980, rồi nhập ngũ, làm trợ lý kỹ thuật điều khiển tên lửa sư đoàn 375, quân chủng Phòng không. Năm 1984 chuyển ngành về công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Bình Trị Thiên. Nguyễn Quang Lập đã từng là Phó Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị. Ông còn là hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.

Tác phẩm chính đã xuất bản: Một giờ trước lúc rạng sáng (truyện ngắn, 1986); Kỷ niệm thời trai trẻ (thơ, in chung, 1983); Tiếng gọi phía mặt trời lặn (tập truyện, 1988); Những mảnh đời đen trắng (tiểu thuyết, 1989); Mười tám truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (1997)

Nhà văn đã được nhận giải thưởng báo Văn nghệ (1986-1987) với truyện ngắn Cây Sến lửa. Giải thơ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1981-1987), với bài Nón em là Nhớ về đỉnh gió. Giải sân khấu 5 năm (1985-1990) Bộ quốc phòng với vở kịch Mùa hạ cay đắng. Giải Hội Nghệ sĩ sân khấu và Hội Nhà văn Việt Nam (1990) với kịch bản Mùa hạ cay đắng.


http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoc/tacgia/TG236.htm



Người thổi kèn Trom-pet


Truyện ngắn



"Xin hát về bạn bè tôi

Những người sống với mọi người …"

(Lời một ca khúc)



Khi đó anh ngước lên, ngơ ngác trước mênh mông cát trắng. Em chỉ đứng cách anh có một quãng, sau một mô cát cao, thế mà anh chẳng thấy. Anh đi. Rồi chạy. Nhìn bóng anh cuống quýt trên bãi cát em buồn cười quá. "Ngốc ơi, em đây này!". Em kêu lên khe khẽ. Anh đứng khựng lại, nín thở lắng nghe. Nhưng dại gì em lại gọi anh nữa! Em đang trốn anh cơ mà …

- Hù … o …

Anh quay ngoắt lại, ngớ ra. Em cười to. Nhìn mặt anh ngẩn tò te, em cười rũ rượi. Anh cúi gầm mặt, khoát mạnh tay:

- Cứ như là … !

Rồi anh thả mịnh xuống cát, ngồi bó gối:

- Trốn … Trốn gì mà lạ thế?

Em cười, oà đến ôm lấy cổ anh:

- Ngốc ơi, người ta chỉ đứng sau có một quãng ... Thế mà cứ khoe: "Mắt anh một trăm phần mười! Thế mới biết con trai là chúa bốc phét nhá!" …

Anh cười trừ, vòng tay sau lưng ôm lấy em. Rồi đứng bật dậy, bế xốc em chạy như điên trên bãi cát. Anh hôn … hôn … hôn …

- Buông ra, cát vào cổ em hết rồi này!

- Mặc kệ! Bắt đền ... này! Bắt đền ... này!

- Thôi, em xin ... chao, quỷ ơi!

Cười to cả hai đứa. Bãi cát mênh mông thế kia chẳng ai nhìn thấy đâu, anh nhỉ?

... Bây giờ đoàn văn công của em đã rời trận địa từ hôm trước, thả em một mình với anh ở đây. Em biết anh thích lắm nhưng em thì buồn và lo quá. Liệu em có đuổi kịp đoàn không? Liệu em có kịp phục vụ bộ đội đang cố đập tan chiến dịch "Tái chiếm Q.T" không? Nếu không kịp thì chuyển công tác vào chiến trường của em thật vô tích sự. Nhìn anh, em thở dài: anh có biết em đang buồn lo điều gì đâu! Anh đang tràn trề hạnh phúc thế kia mà!

- Em ốm đúng thời cơ - Anh nói vui.- Nếu em ốm ở một trận địa khác thì quá lắm anh cũng chỉ được thưởng thức một vài điệu múa của em, và thế là chẳng có chuyện gì mà nói nữa.

- Anh đang biểu dương trận ốm của em đấy à?

Anh cười hiền lành, kéo đầu em sát má anh. Đúng là em vừa qua một trận sốt chưa từng có trong đời. Khi xe vừa qua khỏi đèo Ngang, thốt nhiên em thấy ớn lạnh. Sau đó em buồn nôn, đầu nhức buốt, cuối cùng em đổ vào lòng Kim Thoa - diễn viên hát, chuyên "sô- lô" cho đoàn. Rồi em chẳng biết gì nữa. Mấy ngày liền em nhức nhối, lơ lửng như hôn mê, cứ tỉnh được lúc nào là em lại khóc. Trời ơi, sáu năm ở Hà Nội sao không ốm đau ìg, chưa một lần em chịu hoãn lại một buổi biểu diễn, thế mà vào đây chỉ mong phục vụ bộ đội vài lần thì phải nằm chết dđ một chỗ. Càng khóc em càng kiệt sức, đến nỗi nhìn thấy thanh gỗ mít bắc ngang hầm, en tưởng nhầm là rắn, nhiều lần em rú lên …

… Rồi trong em chập chờn hình bóng anh chàng thổi kèn trom- pét. Anh không biết đâu, tay ấy khá trai lắm, cao hơn em một tấc chứ không lùn tịt như anh đâu. Tay ấy buồn cười ghê lắm! Khi nghe em thông báo là em đã đăng ký vào dnah sách những người xung phong đi phục vụ chiến trường, anh chàng đứng như trời trồng, nhìn em chằm chằm. "Thật à?". "Thật". - "Tại sao lại đi?" - "Thích!" - "Không thể thích như thế được!" - "Cứ thích!" … Anh chàng lắc đầu thở dài và cầm lấy cây kèn lững thững ra hành lang thổi một bản nhạc rầu rĩ: "Tôi đã xa em .. toe! toe! .. Màu trong tôi … toe! toe! … Trái tim tôi … toe! toe!". Em nhớ khi đó Hà Nội đang vào mùa hoa sữa.

Cho đến phút cuối cùng chia tay, anh chàng thổi kèn trom-pet vẫn cố gắng không tin điều đó là sự thật. Tay ấy cho đó chẳng qua là hành động bột phát, liều lĩnh của em. Tay ấy vẫn coi em như một lãng tử, thích giang hồ, mạo hiểm. Có lẽ cũng không sai lắm đâu. Tính em ngang ngược lắm, bướng lắm. Đầu tiên khi em cầm bút đăng ký vào danh sách chỉ vì em thích xê dịch, thích được biết cái nơi mà ngày nào người ta cũng ca ngợi hết lời trên đài, báo. Nhưng sau đó khi thấy tay phó đoàn và hai nhạc công chính của đoàn, những người buộc phải đi, đã chạy chọt xin cho bằng được ở lại Hà Nội, một vài người cũng "đăng ký xung phong" nhưng không phải vì tự nguyện, chỉ vì sợ bị chê cười, sợ bị kiểm điểm … thì em nhận ra tầm quan trọng của chuyến đi cùng với ý nghĩa thiêng liêng của nó.

Em đi. Anh chàng thổi kèn trom-pet không tiễn em, chỉ đứng suốt đêm thổi kèn trên gác thượng… Thế mà trong cơn sốt mê man em đã mường tượng thấy anh chàng đang ngồi cạnh em, bón cho em từng thìa cháo hành, rồi bằng một cái so vai rất điệu, anh chàng nâng cây kèn có một vết xước đầu loe kèn thổi một bản nhạc vui Cu-ba mà em rất thích. Chao ôi, chỉ cần có thế thôi là đủ cho em yêu anh ấy rồi, không cần một lời ngỏ nào hết. Nếu anh ấy cùng đi với em chuyến này thì anh sẽ chẳng có em đâu, em sẽ yêu anh ấy để "trả công" cho bốn năm anh ấy theo đuổi em… Sao anh xịu mặt thế? Ghen à? Xấu quá kìa! … Nhưng ngốc ơi, đó là "giả sử" kia mà, còn bây giờ em đã thuộc về anh rồi, tất cả…



Nơi xuất bản: NXB Hội nhà văn - 2003

http://maxreading.com/?chapter=8029




49 cây cơm nguội


Truyện ngắn

Chỉ bước khoảng vài mươi bước chân, từ cái cổng sắt gỉ của một người bạn gái, chị đã giật mình nhận ra sai lầm của mình. Tại sao lại ngang nhiên rảo bước trên đường mưa vào lúc gà sắp gáy như thế này? - Chị đứng khựng lại, ngoái cổ về phía sau vào đúng lúc câu hỏi ấy vang lên trong chị. Có cái gì rung bần bật trên cao, trong vòm lá cơm nguội làm một khối nước mỏng rơi ào xuống vai. Trong vòm lá cây cơm nguội ở bên kia đường cũng có cái gì vừa rung lên bần bật... Chị nghĩ là đã ngước lên nhìn vào hai vòm lá cây cơm nguội, nơi có tiếng rung bần bật đó, ngay khi vừa nghe thấy, nhưng định thần một chút mới biết mình đã bước lùi hơn mười bước từ lúc nào và mắt cũng vừa mới mở ra. "Có cái gì đâu, trò con nít của thiên nhiên!" - Tự trấn an bằng một định nghĩa mà chị cầm chắc là không đời nào mình lại nghĩ ra loại từ ngữ hay ho như vậy. Có thể ai đã nói từ cái thủa xa lắc, hoặc một người nào vừa "thổi" vào tai phải chị. Thốt nhiên chị cảm thấy tai phải nong nóng. Chị bước lên. Một bước, hai bước, ba... bốn... năm... sáu... bảy - "Đấy, đúng chưa? Có cái gì đâu, trò con nít của thiên nhiên! Đã bảo mà...". Rõ ràng có một người nào đã "thổi" vào tai trái chị, bởi vì, bước thứ bảy vừa dứt thì tai trái bỗng nóng rực lên!... Rốt cuộc cả hai tai cũng đã nguội lạnh khi chị dấn thêm vài mươi bước nữa. Bắt đầu thấy an tâm hơn, da bụng cũng không còn rung lên như mặt trống Jazz lúc phải dùi nữa, tuy chị vẫn không thôi rủa thầm cái tính tự ái vặt đã đẩy chị ra khỏi căn phòng còn có một cái giường không vào lúc không có một phụ nữ táo tợn nào dám bước ra đường. Người bạn gái cùng tuổi bốn mươi với chị chẳng có lỗi gì to tát, chỉ là cái sự vô tâm khi luôn mồm than phiền rằng cô vừa bị cắt hai suất lao động tiên tiến - giữa và cuối năm - vì đã đẻ "ngoài kế hoạch" hai đứa nữa. Chỉ hai suất đẻ mà có bốn đứa con, đáng lẽ phải phổng mũi lên trước thiên hạ rằng bố mẹ của cô, ông bà của cô, ông bà của ông bà của ông bà của ông bà... của cô ăn ở có phúc đức như thế nào trời mới ban cho cái đặc ân được tiết kiệm số lần đẻ tối thiểu để có bốn đứa bé kháu khỉnh đến mê người, lại ở "tỷ lệ vàng" nhiều người nằm mơ cũng không thấy: hai trai hai gái, thế mà cô ta cứ rên rỉ mãi về số tiền thưởng hai suất lao động tiên tiến - giữa và cuối năm - tính theo tỷ lệ tiền lương kiểu nào đó không biết, có tổng số mất đi là chín trăm mười bốn đồng hai hào chẵn!

Chín trăm mười bốn đồng hai hào, thật là vớ vẩn. Nếu chị đẻ được chị sẽ đẻ 100 đứa dù có mất đi một trăm lần chín trăm mười bốn đồng hai hào chẵn ấy. Chị không đẻ được không phải bởi vì chị không đẻ được... Chị thừa sức làm cái công việc tối thiếu ấy của phụ nữ một cách dễ dàng, không một chút kêu ca như người bạn gái lúc nào cũng "loa! loa! loa! loa!" về hai suất lao động tiên tiến. Giá cô ấy ngồi lặng lẽ bên chị, đưa cặp mắt u sầu ngước lên nhìn chị, khẽ khàng cầm lấy hai bàn tay xanh gầy của chị, thì thầm: "Đã có ai chưa? Có chưa..." thì lúc đó chị thở dài, khẽ lắc đầu, hoặc sẽ gục vào vai cô ấy mà khóc, khóc tức tưởi... nhưng chị sẽ ngủ lại với cô ấy. Chị sẽ nằm giữa bốn đứa trẻ để ngửi cái mùi sữa hoi hoi và mùi nước tiểu của chúng. Và hát. Đúng như vậy, chị sẽ hát như một người mẹ đang có bốn đứa con, hai trai hai gái, vừa hát vừa hít lấy hít để cái mùi sữa hoi hoi và mùi nước tiểu của lũ trẻ cho tới khi bật khóc. Thà phải khóc như thế còn hơn là bây giờ đang một mình lủi thủi giữa đường đêm hiu hắt đầy mưa...

*
* *
Chị dừng lại một chút trước khi vượt qua quãng đường tối nhất, để sau đó chị cần rẽ vào một lối hẹp chừng ba mươi mét là đến khu tập thể nơi chị sống với mười chín cô gái tơ suốt ngày thổi kèn đồng (tức là hát và cười ré lên) cùng với những câu chuyện chị cho là ngớ ngẩn, vô bổ về các anh chàng đần và nhát gái được họ vừa tranh nhau kể vừa cười vừa chép miệng... Bây giờ "mười chín cái kèn đồng" đã ngủ, chỉ mỗi mình chị lủi thủi giữa đường mưa. Như thế này còn thú hơn phải ngồi giữa dàn hỗn tấu vô bổ, ngớ ngẩn ấy. Sống với họ, chị thấy mình lạc lõng, vô duyên, y như một kẻ không biết uống rượu buộc phải ngồi giữa một lũ say. Chị buộc chặt tấm áo mưa, níu lại quai nón, hít một hơi thật sâu và bước. Mới đầu chị bước từng bước ngắn và nhanh, nhưng sau đó, khi mưa dồn dần về phía sau để lại phía trước từng đám mưa rây bột, thì chị bước dài hơn và chậm lại. Phía sau, tiếng mưa nghe như tiếng chân của một đám đông trẻ con đang chạy, chị nghĩ thế và bước chậm lại, thật chậm để chờ lũ nhóc thích nghịch nước ấy tiến lên. Chốc lát, mưa có vẻ lắng lại chút ít rồi chợt vỡ oà ra, tràn trề ở phía sau. Chị thấy mình rạo rực hẳn lên, bước từng bước thong thả, đầy tự tin, pha một chút kiêu hãnh - kiêu hãnh như "mười chín kèn đồng" mỗi bận bước ra đường - chỉ vì bỗng nhiên chị tưởng tượng có một triệu chàng trai đang lẽo đẽo sau lưng chị. Họ vừa bước vừa đưa mắt thăm dò nhau, rồi họ bước nhanh dần, tranh nhau bước... Chị mỉm cười. Thì chị cũng đã có một thời như vậy, tất nhiên không lấy đâu ra một triệu, chỉ năm bảy chàng trai lực lưỡng lẽo đẽo theo chị trên những nẻo đường rừng. Lúc đó chị còn là một cô gái xinh tươi và nghịch không thể tả. Chị đi, mải mốt đuổi theo những gì chưa có trong sự thật, để lại cho anh chàng cứ việc lẽo đẽo theo sau, thỉnh thoảng nói vớt vát vài câu không chủ vị. Và chị mỉm cười, y như bây giờ chị đang mỉm cười. Rồi số người đuổi theo chị thưa dần. Không phải họ đã nản: người này xuống đồng bằng và hy sinh, lại người khác, lại hy sinh... Chỉ còn một người, cái anh chàng cù lần có cái nốt ruồi to như hạt đỗ đen đậu thản nhiên trên mép trái, chướng mắt đến độ nhiều lần chị kêu toáng lên: "?i chết, con ruồi...!" Làm mặt anh chàng bỗng như một miếng cơm cháy, thì vẫn còn câm lặng kiên trì luôn cách cái gáy trắng muốt của chị năm bước chân - chỉ năm bước không hơn. Rốt cuộc chị đã yêu anh, đúng hơn là chớm yêu, đúng hơn nữa là khi môi chị run run sắp chạm vào môi anh thì một tiếng hắng giọng rõ to từ sau gốc cây lim trắng bỗng vang lên, đó là tiếng hắng giọng "oai hùng" của ông thủ trưởng binh trạm. Thường thường ông chỉ dùng tiếng hắng giọng ấy để báo hiệu bắt đầu vào cuộc họp, và bao giờ cũng hiệu quả như một phát súng hiệu báo đến giờ G, nên sau đó đúng một buổi chiều, khắp binh trạm người ta kháo nhau rằng anh chị chuẩn bị "họp" thì ông thủ trưởng hắng giọng... Người ta ôm bụng cười còn chị thì bị kiểm điểm vì tội "làm cách mạng nhưng chưa triệt để", hạ từ "đối tượng" xuống "cảm tình". Anh thì được điều xuống K11, ít lâu sau nghe nói vướng mìn clâymo và chết. Chị nhớ mãi đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng đã nghiêm khắc nhìn hai người như thế nào khi ông xuất hiện bất ngờ từ sau gốc lim trắng. Sau đó, đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng lại nghiêm khắc nhìn chị một lần nữa, không phải, lần này ông nghiêm khắc nhìn hết người trong binh trạm chứ chẳng riêng gì chị, để kiểm tra xem có ai dám tung tin ông đã ăn nằm với một nữ dũng sĩ diệt Mỹ chuẩn bị ra bắc báo cáo thành tích, hay không. Cấp ủy của binh trạm đã ra nghị quyết "về việc cấm tung tin này để bảo vệ uy tín cho lãnh đạo". Chị im re. Tất cả đều im re, trừ anh chàng thủ kho ngứa mồm, nhân vác con lợn nái xuống trại chăn nuôi của một đơn vị bộ đội gần đấy xin lấy giống, bô bô chuyện động trời này cho mọi người, bị "cạo" bốn ngày hai đêm vì tội "bôi nhọ lãnh đạo" đến nỗi một năm sau anh ta như một kẻ câm, chỉ thỉnh thoảng bật ra một tiếng cười gằn. Chị sợ quá đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng binh trạm, một người luôn luôn nói rành mạch và khẳng khái cách mạng thế giới diễn ra mấy giai đoạn, giai đoạn nào thì nhảy vọt, giai đoạn nào thì nhảy qua... Đáng lẽ chị chẳng nhớ đến đôi mắt hơi lồi ấy vào lúc mưa gió th?này đâu nếu chị không để ý đến những cái bong bóng nước chợt phình lên - dọc các mép đường ở những chỗ có ánh điện - lấp lóe, lấp lóe rồi phụt tắt, lại phình lên... làm cho chị rùng mình. Chị còn thấy những cái bong bóng nước nữa, những ảo ảnh về nó vẫn còn, chị thấy sờ sợ, cảm hứng hoang tưởng về một triệu chàng trai đuổi theo bỗng tan biến! Chị bước nhanh, gần như chạy...

*
* *
Mưa đã quạt trở lại, từ phía sau dồn nhanh lên phía trước, ào ào. Chị rụt cổ sâu vào tấm áo mưa, thành thử cái nón như một vật thừa, xoay tứ bề phía trên chỏm tóc. Một đợt gió nhẹ, rất nhẹ, đã làm nó bật ngửa rơi chéo ở phía trái sau lưng chị. Chị quay lại, vừa cúi xuống bỗng há miệng nhảy lùi xa đến mấy bước. Một bóng đen như mọc lên từ những rễ cây cơm nguội cạnh đấy, lừ lừ bước ra. Bóng đen giơ tay chào rồi cúi xuống nhặt cái nón đội lên đầu, tiến về phía chị. Chị lùi dần, lùi dần. Chị muốn hét lên, hét thật to nhưng cổ họng cứng ngắc...

- Đư-ừng! - Cuối cùng chị đã hét lên. Ngay sau tiếng hét ấy, một sự bật nút chai, toàn thân chị dâm dấp một thứ nước nóng, có lẽ là mồ hôi.

- Tôi đây mà - Bóng đen đã lên tiếng, đó là tiếng của đàn ông.

Chị hoảng hốt giật lùi mấy bước nữa người đàn ông đã tiến lại gần, chị kêu lên run rẩy:

- Đừng, trời ơi! Tại sao cứ tiến lại!... Tại sao cứ tiến lại!

- Không tiến lại thì tôi sẽ ướt như chuột... Tôi xin được trú nhờ tấm áo mưa của chị một lát, một lát thôi, nhà tôi ở gần đây rồi.

Vừa nói người đàn ông vừa gỡ nút ni lông trong tay phải chị, nhanh nhảu và bình thản như người nhà, hất ni lông qua vai chị, đội cái nón lên đầu chị.

- Đi! Nhanh lên ướt hết cả bây giờ! ?i, tôi may quá... Tấm áo mưa được người đàn ông giăng rộng, khéo léo khép hờ bên trái kia một chút làm cho chị lọt thỏm vào phía trong, sau nách trái người đàn ông một vài phân. Đầu chị hoàn toàn trống rỗng, chị chỉ biết bước theo, bước bước bước bước...

- Cúi đầu xuống một tý! Đừng sợ, tiến lên. Nhanh...

- ...

- Mưa kiểu này cá bống nhiều lắm đấy. úi chà chà... ếch! Tiên sư mấy con ếch, bố mày mà có cái đèn!...

- A ha ha... Cái nón!

Cái nón bật ra, lăn mấy vòng xuống lề đường. Người đàn ông buông ni lông quay lui. Khi đó, đúng một tích tắc, chị định vùng chạy. "Chạy nhanh lên! Chạy nhanh lên!" - Vang vang trong chị tiếng kêu như tiếng còi cứu hỏa. Thế mà chị cứ đứng im cho đến khi người đàn ông quay lại, chui vào tấm áo mưa.

- Tiếp tục.

- ...

- Cẩn thận mấy cái vòi sắt! A ha ha... cái nón! Tiên sư bố nó chứ.

Người đàn ông lại buông ni lông quay lui về phía cái nón khi đó đang xoay tít ở phía sau. "Chạy nhanh lên"... chị run rẩy... "Chạy nhanh lên"... Chị cắn chặt môi, nín thở...

- Đi thôi, lần này đừng có hòng mà bay nữa nhé. Chị cầm hộ tôi đầu này... Đấy! Tốt ! Đi!

Chị lăm xăm theo từng bước dài, gấp gáp của người đàn ông, cảm giác như mình bị lôi đi xềnh xệch chứ không phải đang bước. Chị mụ đi trước sức cuốn táo tợn và vui vẻ của người đàn ông, chỉ có bước, vậy thôi, ngay vả việc ước tính khoảng bao lâu nữa sẽ tới nhà chị cũng không nghĩ tới.

- Đến rồi! Tốt rồi. Giờ phút chia ly đầy nước... mưa đã tới. Chị cầm lấy mảnh ni lông. Tốt. Tạm biệt!

Người đàn ông rời tấm áo mưa vụt chạy, được mấy bước chợt phá lên cười:

- A ha ha... cái nón! Suýt nữa tôi ăn cắp cái nón.

Người đàn ông quay lại, vui vẻ đặt cái nón lên đầu chị rồi vụt chạy, được vài bước lại kêu lên và cười:

- Chưa cảm ơn! A ha ha... thằng đần!

Ngay lúc đó, hoặc trước đó, hoặc sau đó, đầu chị bỗng dúi dụi. Một cái hôn bất ngờ đặt xuống đúng lúm đồng tiền bên má trái. Chị sững người, toàn thân run lên, một cảm giác mát rượi và ran rát từ lúm đồng tiền má trái chạy lân lan khắp cơ thể chị. Người đàn ông biến mất, hình như đã rẽ vào một lối nhỏ bên trái...

Chị rũ xuống trong giây lát rồi ngẩng phắt lên, chạy. Chị chạy tơi bời giữa một trời mưa gió...

*
* *
Rất lâu, sau khi vấp phải bức tường đen nhẻm chắn ngang trước mặt, chị mới đứng khựng lại, ngơ ngác ngó xung quanh: một đám cây rưới, một tháp chuông cao, một lạch nước nhỏ. Thôi rồi chị đã lạc vào ngõ nhà thờ! Không biết chị chạy như thế nào để có thể lạc vào một ngõ nhỏ heo hút nằm sau phía tây thành phố. Chị đứng dựa vào bức tường, thở dốc.

Mưa đã có phần giảm đi, qua một khoảng sáng được phản chiếu nhờ ánh lửa của mấy cái lò nung vôi nhỏ gần đấy, chị thấy rõ từng đám mưa cắt chéo đang thưa dần. Đành phải trở lại, chẳng có cách nào hơn. Chị vừa kéo lại tấm áo mưa, xốc ngược lên, chuẩn bị bước thì nhận ra cái nón đã bay từ lúc nào. Một cái nón mới, quai nhung mầu nước biển mới sắm hôm qua, bây giờ biết nó bay về lối nào để mà tìm? Phải quay trở lại theo đúng con đường đã chạy tới đây may ra mới tìm thấy nhưng làm sao nhớ được khi chị chạy như một con điên mịt mù những ảo giác? Chị bỗng thấy oan ức quá, một nỗi oan ức không thể gọi tên cứ liên tiếp ập xuống trên từng bước đường đời, đã toan hất tấm áo mưa gào lên một tiếng thật to và khóc, không hiểu sao chị chỉ khẽ nấc lên một tiếng nặng và trầm, nước mắt dân dấn...

Mưa đã ngớt. Thấp thoáng trên cao những vì sao nhỏ xíu đang nhấp nháy. Gió mạnh dần lên, mát rượi. Chị tháo tung tấm áo mưa, thong thả bước. Chẳng việc gì phải vội vàng khi đã quá khuya - quá muộn mằn không thể vớt vát. Tai họa phải sợ bắt gặp coi như đã gặp, còn một khoảng vắng cuối cùng dùng để nghỉ ngơi, nếu không ngủ được thì hãy thư thả bước. Chị không thấy sợ hãi nữa, thậm chí còn ngạc nhiên không hiểu vì sao mình lại sợ run lên khi mới rời cái cổng sắt gỉ nhà người bạn gái. Nếu bình tĩnh như lúc này, có thể chị đã nói ra được dăm ba câu thật có duyên với người đàn ông kia và dễ dàng tránh được cái hôn cưỡng bức đã làm cho chị phát cuồng chạy lạc vào tận ngõ sâu hút này. Sẽ kể chuyện này cho ai nghe? Có nên cho "mười chín cái kèn đồng" biết hay không? Không nên. Nếu chị kể họ sẽ cười váng nhà rồi mấy giây sau là quên béng. Đêm đêm, vào khoảng chập choạng tối, "mười chín cái kèn đồng" xắng lên sắm sửa áo quần lao về các câu lạc bộ vũ quốc tế, nhảy đến toát mồ hôi, rồi từng đôi, từng đôi... rút lẹ làng đến quấn quanh các gốc cây cơm nguội, bình thản nhận và bứt từng cái hôn, để rồi sáng mai lại tha hồ vừa tranh nhau kể vừa cười vừa chép miệng... về các anh chàng đần và nhát gái. Chị ở phía sau tâm hồn của "mười chín cái kèn đồng", lặng lẽ gạt những nỗi oan ức để mà bước, bước như bây giờ đang bước, như ngày xưa trên những nẻo đường rừng. Kể từ khi môi chị run run sắp chạm phải môi anh, chuẩn bị đón cái hôn đầu mà từ lâu thỉnh thoảng chị đỏ mặt hỏi thầm "không biết nó sẽ ra sao?", và bị chặn đứng lại vì cái hắng giọng rõ to từ sau gốc lim trắng... đã trọn 20 năm. Nhanh thật. Thì chị cũng chỉ bước bước bước... thế này thôi thế mà đã 20 năm. Hai mươi năm ừ nhỉ... "Không biết nó sẽ ra sao?"...ừ nhỉ... té ra mát rượi và ram ráp... Chao ôi, buồn cười chết đi được cái anh chàng cù lần có nốt ruồi to như hạt đỗ đen đậu thản nhiên trên mép trái... "A ha ha... cái nón!"... Khiếp, đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng... "Tiên sư mấy con ếch, bố mày mà có cái đèn!...", Chao ôi, buồn cười chết đi được, thế mà mình lại khóc... Những liên tưởng rối rắm quay tít mù trong đầu khiến chị cảm thấy chóng mặt. Chị đứng lại hít sâu vài hơi, lại bước. Quãng đường mưa có những hàng cây cơm nguội chạy dài đã hiện ra trước mắt. Chị cảm thấy mình nhẹ hẳn, khỏe khoắn hẳn, bước nhanh hơn, khoan khoái và hứng thú. Con đường mưa đây rồi. Lối rẽ vào khu tập thể kia rồi. ?i giờ sao sáng sủa thế này? Có lẽ đã rạng sáng. Chị dừng lại chút xíu ở lối rẽ vào khu tập thể rồi bước thẳng. "Cần phải tìm cái nón chứ chắc là nó rơi gần đây thôi. Chắc thế". Chị ngước lên nhìn những vòm lá cây cơm nguội. Phía trên vòm lá là những vì sao nhỏ xíu, mọc thưa thớt, nhấp nhánh... "Cần phải tìm cho ra cái nón", chị luôn nhắc nhở mình để tiếp tục đi nốt quãng đường mưa mà chị đã bị người đàn ông "lôi đi xềnh xệch". Cuối cùng, chị tần ngần đứng lại ở chính cây cơm nguội, nơi chị đánh rơi cái nón lần đầu, nghĩ mãi vẫn không hiểu người đàn ông đã nấp ở chỗ nào khiến chị đi qua mà không thấy. Thơ thẩn dọc hàng cây cơm nguội, chăm chú nhìn từng gốc và đếm, chị đếm từng gốc cây. Có bốn mươi chín cây cơm nguội tất cả, kể từ cây chị đánh rơi cái nón lần đầu, cho tới cây người đàn ông cười ha ha "suýt nữa tôi ăn cắp cái nón". Bốn mươi chín cây không hơn đúng như vậy, không hơn bốn mươi chín cây, đừng có hòng mà sai, bốn mươi chín cây tất cả. Chị đứng tựa vào gốc cây cuối cùng nhìn thăm thẳm phía dòng sông, cố tìm xem trong lớp sương mù vương vất bờ bên kia còn một con thuyền nào không. Không có, tuyệt nhiên không, chỉ có mặt dòng sông đục mờ thấp thoáng... Chị gục đầu vào cây cơm nguội đây là cây cơm nguội thứ bốn chín, kia là lối rẽ trái của người đàn ông, một lối mòn nhỏ chạy ngoằn ngoèo xuống dòng sông đang chảy. Lối ấy không có nhà, những con thuyền cũng không... áp nhẹ má mình vào thân cây, thốt nhiên chị rùng mình ngơ ngác. Một cảm giác mát rượi và ram ráp từ vỏ cây xù xì, ướt nước đang lây lan khắp cơ thể chị. Kỳ lạ quá. Dòng sông không một bóng thuyền. Đây là cây cơm nguội thứ bốn chín. Kia là lối rẽ trái kia nữa, kia nữa... "A ha ha... Cái nón" mới đó mà đã hai mươi năm cái anh chàng cù lần... Chị áp má vào gốc cây, dúi dụi. Mát rượi và ram ráp, chị mỉm cười. Mát rượi và ram ráp. "Đừng!" - chị kêu lên thảng thốt - "thôi, kìa!..." Chị tủm tỉm cười về tiếng kêu nghốc ngếch của mình - "may mà không ai nghe thấy" - rồi nhắm nghiền mắt. Mát rượi và ram ráp. Mát rượi và ram ráp. Mát rượi và ram ráp. Mát rượi và ram ráp... Chao ôi buồn cười chết đi được cái anh chàng cù lần có nốt ruồi to bằng hạt đỗ đen đậu thản nhiên trên mép trái.



NGUYỄN QUANG LẬP
http://www.maiyeuem.net/vtopic37382.html



Đêm 30 có mỗi truyện này



Chiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đeo gọng vàng.
- Bưởi! Gã vươn vai dựa hẳn vào thành xe, rút thuốc lá hút. Ông cho con ba chục. Quỳ chưa đi vội. Loại này hoặc công chức, hoặc ma cô, phải ngã giá trước. Gã quay lại, lột kính lừ lừ nhìn Quỳ. Quỳ cảm thấy hai tia sáng mắt gã đang soi từng lỗ chân lông da mặt mình.
- Mày định ăn thịt người ta hay sao mà thét dữ thế.
- Dạ tết nhất đến nơi. Ông gọi hàng nào cũng thế. Âëy là con lấy rẻ năm ngàn.
Thì ra gã chỉ mắng thế thôi chứ không thêm bớt một hai gì. Đường phố ngày tết người ta đi như ăn cướp, như chạy giặc. Quỳ cũng lạng lách như ai, chủ yếu để người ta không coi mình là thằng nhà quê, ngờ nghệch quá. Từ từ thôi! - gã nhắc.
- Văng. Đi tử tế vào, rồi tao trả nốt năm ngàn.
-Văng. Quỳ thả lỏng, thong thả đạp. Xem ra gã cũng tử tế. Từ ngày ra phố làm ăn, cứ ba ông khách thì một ông tử tế. Quỳ thường khoe với vợ như vậy. Vợ Quỳ tròn xoe mắt: “Tử tế mà lắm thế à?”. Đàn bà suốt đời rúc xó bếp biết gì! Vợ Quỳ mặt đã to lại phèn phẹt, nhưng từ cổ trở xuống thứ nào thứ nấy không đáng yêu cũng đáng nể. Ăn uống kham khổ lắm, thế mà cái đít lúc nào cũng vổng lên. Rõ đáng tự hào.
- Ây! Gã khách kêu lên. Quỳ không kịp phanh xe, gã đã nhảy xuống lật đật chạy về phía sau nhặt lên một cái vòng. Quỳ cũng chạy tới. Vàng! Cái vòng vàng. Gã khách mân mê cái vòng vàng, cười toét một cái: “Một cây là cái chắc!”. Gã nhét ngay vào túi và nhảy phốc lên xe.
- Đi nhanh, mày. Tao tăng gấp đôi tiền cho. Quỳ thấy xót quá, nếu mình không nghĩ vẩn vơ thì mình đã thấy trước gã.
- Ông tính một mình lấy luôn cái vòng à? Quỳ hỏi giọng run run.
- Chứ sao, tao thấy trước mày.
- Con thấy trước ông nhưng con không kêu lên. Quỳ cố gắng không để lộ cái giọng run run của mình. Gã khách cười cái “rắc”, nghe như ai vừa bẻ một cành khô.
- Ai bảo mày không chịu phát biểu ý kiến! Quỳ thấy mình đuối lý. Đối đáp với người phố bao giờ Quỳ cũng là thằng đầu đất. Hôm qua có ông khách mắng Quỳ: “Tụi mày đói là vì không biết ngậm miệng ăn tiền”. Quỳ cũng thấy đúng quá. Quỳ cố nặn óc nghĩ được câu gì hòng thuyết phục gã chia cho một ít.
- Tết nhất được lộc trời, ông cho con xin một ít. Dứt lời, mặt Quỳ nóng bừng, khi không lại mở mồm xin xỏ. Gã khách lại quay lại nhìn Quỳ.
- Mày trông thế mà cũng có văn hóa đấy. Được, mày xin thì tao cho. Tao bảy mày ba, được không? Quỳ cười nịnh, cái mặt cười mới thảm hại làm sao:
- Ông cho con bao nhiêu,ơn ông bấy nhiêu. Gã khách lại cười cái “rắc”. Thằng cha cười đến hay, như chó khạc xương.
- Ơn nghĩa! Tụi mày đói mà xài sang quá. Cái vòng này cỡ một cây. Tao trả mày tiền ba chỉ, tao lấy cái vòng - Gã xỉa ra tập tiền sáu trăm ngàn, hất tay phía sau - Cầm lấy! Nhìn sáu tờ một trăm ngàn. Quỳ thấy chân tay mình cóng lại.
- Ông ơi, vàng bây giờ một chỉ gần năm trăm ngàn. Ông cho con ba chỉ mà được có... Gã lập tức đút tiền vào túi.
- Không lấy thì thôi. Vàng rụng vàng rơi, một chỉ hai trăm là quá lắm.
Quỳ định nói: “Thôi, ông cho con xin” nhưng không hiểu sao lại kêu lên:
- Một chỉ hai trăm thì thiệt con quá!
Gã khách nhảy phắt xuống, chậm rãi tiến sát chỗ Quỳ:
- Mày được voi đòi tiên. Đã bảo vàng rụng vàng rơi giá chỉ có thế thôi. Mày thích thì tao đưa tiền cho, không thích thì đưa tiền cho tao. Cũng giá đó.
Chưa bao giờ Quỳ tính nhẩm nhanh như lúc này. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Đạp xích lô cả năm trời cũng thế thôi. Gã khách moi cái vòng vàng ra, đưa cho Quỳ.
- Đây, mày xem có đúng một cây không. Hay bảo tao nói phét? Quỳ cầm cái vòng xoay xoay. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Cộng với ba chỉ phần mình nữa, bán vứt đi cũng được 4 triệu bạc. Chợt gã khách đập nhẹ vào tay Quỳ. Quỳ giật mình ngước lên. Một cô gái đang hớt hải chạy tới. Quỳ vừa kịp đút cái vòng vào túi quần.
- Các bác được cái vòng của cháu phải không ạ? Cô gái mặt non choẹt nhưng son phấn kỹ lưỡng lắm. Áo hở rốn, quần bò bó căng, cố tình làm nổi bật cái phần cần giấu đi. Xem “phong độ” biết ngay loại ăn chơi ngoại hạng.
- Cái vòng của mẹ cháu. Các bác được thì cho cháu xin. Không mẹ giết cháu.
- Vòng vèo nào ở đây. Gã khách trợn mắt quát. Không dưng lại túm áo người ta mà hỏi. Biến đi!
- Không mà... Người ta chỉ cho cháu...
- Biến! Gã khách đẩy cô gái ngã ngồi. Cô gái lồm cồm bò dậy vừa đi vừa nấc lên. Tự dưng Quỳ muốn gọi cô gái lại quá... Cách nào thì mày giải quyết đi. Nó đi gọi công an đấy.
Quỳ sực tỉnh, vội vàng lôi trong lưng quần ra cái bọc. Gã khách giật lấy. Bao nhiêu đây?
- Một triệu ba năm chục. Tao thiệt đơn thiệt kép. Gã khách thở ra. Thôi mày đi mau lên!
Quỳ cắm cổ đạp xe chạy vù vù. Thỉnh thoảng phanh kít lại, đập tay vào túi quần: Vẫn còn! Cái vòng vẫn còn! Lại đạp xe chạy vù vù. Còi ô tô kêu cái “roét!”, mồ hôi Quỳ túa ra, lạnh toát. Gớm, không biết cách nào Quỳ đã vọt ra tận Hồ Tây. Sờ túi, cái vòng vẫn còn, Quỳ cười nhăn một mình. Bây giờ phải quay trở lại, về Hàng Đào bán mới có giá. Ở đấy Quỳ có quen một chị hàng vàng, năm ngoái Quỳ đưa đón con chị đi học. Chị này giàu nứt đố đổ vách lại tử tế, chắc chẳng thèm ăn bớt của Quỳ. Một cây gần năm triệu, có cân non đi đằng giời cũng cầm chắc bốn triệu. Bốn triệu! Quỳ chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế. Vợ Quỳ cũng thế. Thị sẽ thế nào khi mình giơ bọc tiền ra nhỉ? Thị sẽ không dám cầm, ngờ vực hỏi: “Ai cho mà nhiều thế?”. Ai cho” - Quỳ bế xốc thị lên giường - “Tưởng tớ không kiếm được ngần ấy tiền à?”. “Ây, ây... Con đang chơi ngoài sân”. “Gọi nó vào, đem cái đĩa bảo đi mua nước mắm”. Thị đẩy Quỳ ra, lườm: “Thì tắm rửa đi đã. Được mấy hơi mà hoắng lên thế”. Ừ thì tắm. Tắm xong tớ sẽ nghiền nát cái đít tự hào của mình ra, xem có còn khinh tớ nữa không. Xong rồi, thể nào thị cũng hỏi đi hỏi lại: “Ai cho đấy, nói thực xem nào? Hay là có con đĩ nào nó cho?”. Chà thích quá rồi, còn ra vẻ! Quỳ kể Quỳ gặp vận may như thế nào, cái ông khách tử tế ra sao. Thị lại tròn mắt kêu lên: “Tử tế mà lắm thế à?”. Tử tế mà lắm thế à. Rõ lũ đàn bà đần độn ngu si. Quỳ vừa nghĩ ra câu thơ. Quỳ nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc, mai về sẽ đọc cho thị nghe. Thị sẽ ré lên bóp cho Quỳ một cái. Thị bóp thì đau lắm nhưng mà thích.
Chị hàng vàng tung nhẹ cái vòngmấy lần rồi ngước lên nhìn Quỳ. Có khi cái này không phải vàng. Nhẹ lắm.
Quỳ cười to, vui vẻ nói:
- Thì chị cứ thử đi. Trông điệu bộ đi tìm đèn khò không được nhiệt tình cho lắm của chị, Quỳ đã thấy lo lo. Tuy vậy, Quỳ vẫn nói cười như không.
- Vàng đang lên phải không chị?
- Ừ. Bốn chín hai.
- Em bán bây giờ là được giá, chị nhỉ?
- Ừ. Đèn khò bật lửa. Ở cái nơi tia lửa liếm vào, một thứ nước rỉ xanh tứa ra. Mắt Quỳ tối sầm.
- Đồng em ạ. Mạ vàng thôi.
Một khối nước đá từ trên đỉnh đầu đang tràn xuống chân. Quỳ đứng trơ, nước đái từ hai ống quần túa ra, đọng thành vũng trên nền đá hoa.
Quỳ rơi phịch xuống ghế. Và kể. Chị không hỏi, Quỳ cũng kể. Không phải, Quỳ đang lảm nhảm như một thằng điên.
- Vàng giả sao nó dám đưa tiền cho em? Em ơi, có khi đó cũng là tiền giả. Quỳ nuốt nước bọt, ngước lên ngẩn ngơ nói:
- Tại em tham quá. Trong tích tắc, nước mắt Quỳ dàn dụa. Chị đưa cho Quỳ cốc nước lọc, khẽ thở dài.
- Em cũng đừng dằn vặt nữa.Tham là bệnh tật của giống người. Người ta trước sau rồi cũng mắc phải, chẳng ai nói phách nói tướng được. Thôi, coi như mình vừa bị mất cắp, bị trấn lột, còn mấy tiếng nữa là hếtnăm, ráng kiếm vài chục, về quê còn có chút gì đưa vợ. Quỳ đạp xe ra ga, về bến xe phía Nam, vòng vèo ra tận Phà Đen, lên chợ Bưởi, cũng chẳng có ma nào gọi. Phố phường vẫn đầy người ra đấy nhưng hôm nay là ngày vui của người ta, ngày chết tiệt của Quỳ. Đêm xuống rất nhanh, gió hun hút thổi. Quỳ không rét nhưng mà đói. Đói lắm. Phố xá tịnh không ai còn mua bán gì. Khổ nỗi đường phố giờ này lại ngậy mùi xôi thịt, rúc vào đâu cũng ngậy mùi, càng hít chân tay càng rời rã. Quỳ dừng xe một góc phố, tính làm một giấc lấy sức rồi gửi xe cuốc bộ về quê. Gần 40 cây số nhưng đi mãi rồi cũng đến, cũng không hết tết đâu mà lo.
Không ngủ được, nhạc nhéo đinh tai nhức óc. Nhà sát đường chưng đèn kết hoa như đám cưới, nhưng nhìn vào thời trống hoác, chỉ một đôi trai gái đang ôm nhau nhảy. Chúng nhảy như động rồ, ngoắc của nợ vào nhau chứ đâu phải là nhảy. Bỗng Quỳ đứng phắt dậy. Gã khách! Thằng quần bò áo thun! Thằng mặt rỗ! Con kia đích thị là đứa đến xin vòng. Tiên sư cha quân mất dạy! Quỳ chực xông vào nhưng hú hồn đã khựng lại được trước cổng. Đêm ba mươi vào làm ầm ĩ nhà người ta thì cầm chắc tiền mất tật mang. Cứ đứng đây đợi. Thằng kia nếu là chủ thế nào cũng tiễn con kia, nếu là khách thì quá lắm đến giao thừa cũng phải cút. Còn hai tiếng nữa đến giao thừa chứ mấy. Quỳ ngồi xổm, tựa lưng thành cổng, nghiến răng chờ đợi. Con chó bẹc-giê thấy có người lạ liền đủng đỉnh đi ra, đưa mắt lừ đừ nhìn Quỳ, gừ một tiếng, ra cái điều: “Nhìn cái gì mà nhìn”. Chó nào chủ nấy. Chó nhà quê nghe tiếng người cuối xóm, đầu xóm đã sủa nhặng lên, ra vẻ hung hăng lắm, nhưng người ta dậm chân một cái đã cụp đuôi mất dạng ngay tắp lự. Con bẹc-giê đến sát cổng, nằm bẹp xuống, trễ nải lim dim mắt nhìn Quỳ. Rõ nó coi Quỳ bằng nửa con mắt. Quỳ cười khẩy, nghĩ bụng: “Mầy là cái đéo gì. Đồ liếm cứt nhà giàu”. Nó lại gừ một tiếng rồi ưỡn ngực vươn vai, đủng đỉnh đi vào, ra cái điều: “Chẳng dư hơi đôi co với lũ chúng mày”. Thế mới tức. Tự nhiên Quỳ uất lên.
“Ba-ái!”. “Xí ố ghẻ-ên!”. Rồi! Thằng kia ra rồi. Quỳ vụt dậy. Gã vừa ra khỏi cổng, Quỳ đã túm chặt lấy tay gã.
- Ông! Đây là cái vòng giả! Ông cho con xin lại tiền.
Gã từ tốn nhìn Quỳ, không lộ một chút gì tức giận hay sợ hãi. Tuồng như gã đã biết trước thế nào cũng gặp Quỳ, thế nào cũng nghe Quỳ nói thế. Thì buông ra đã nào. Tao có chạy đi đâu mà sợ.
- Con đã thử rồi. Đây là cái vòng đồng mạ vàng.
Quỳ đưa cái vòng cho gã. Gã cầm cái vòng ngắm nghía. Giả à?
- V-ăng. Ừ, nếu giả thì tao đưa lại tiền cho. Coi như tao không được cái gì.
Gã nhảy lên xích lô, vui vẻ nói:
- Đi! Đi thử một lần nữa cho chắc. Rồi mày chở tao về Bưởi, tao lấy tiền đưa mày. Mau lên, giao thừa sắp đến rồi.
Quỳ định nói: “Thôi, không thử nữa, ông cho con xin lại tiền”, nhưng lại nghĩ bụng: “Thử thì thử, sợ gì! Lần này có ông nội mày cũng không lừa được ông nữa đâu, con ạ”.
Gã bảo Quỳ dừng lại trước cửa hàng vàng cách hàng vàng quen của Quỳ có mấy trăm mét. Chủ nhà đã đóng cửa nhưng thấy gã thì vui vẻ lắm, nhanh nhẩu tìm đèn khò ra xịt. Ủa, nước vàng chảy ra tươi rói! Thế là thế nào nhỉ?
- Mày thử kiểu gì lạ thế? Làm mất thời gian tao! - Gã vừa đi ra cửa vừa càu nhàu và nhét cái vòng vào túi.
Quỳ lẽo đẽo theo sau, nói giọng thiếu tự tin hẳn:
- Con thử nhà người quen hẳn hoi.
Lập tức gã quay ngoắt lại.
- Đâu? Nhà người quen mày ở đâu?
- Đó kìa! Có một đoạn.
Gã rút cái vòng ra đưa cho Quỳ:
- Cho mày thử lại. Không bảo tao hợp đồng nhà người quen lừa mày. Đi mau lên, Quỳ co cẳng chạy. Không kịp bấm chuông, cứ thế lao thẳng vào nhà.
Chị hàng vàng cầm cái vòng lật đi lật lại. Đâu? Vết thử của người ta đâu? Mỗi vết thử của chị đây này.
- Vừa thử xong mà. - Quỳ thở hắt ra.
Chị hàng vàng bỗng tái mặt kêu lên:
- Thôi rồi! Nó thử cái vòng thật của nó. - Chị đẩy Quỳ, hối hả giục. - Ra đi! Khéo không cái xích lô của em...
Quỳ lao như tên bắn. Ối cha mẹ ơi, họa vô đơn chí! Cái xích lô lấy lại của người ta, còn chưa trả hết tiền. Quỳ ngã sấp xuống mặt đường, mãi sau gượng ngước lên đã thấy chị hàng vàng ngồi trước mặt. Chị đỡ Quỳ dậy, nói như rên:
- Về quê mà làm ăn em ạ. Ỉa vào phố với phéo. Quỳ biết mình khóc nhưng không đừng được.
- Chị ơi, bao giờ em mới hết ngu?
Chị nhét năm mươi ngàn vào túi Quỳ, giọng nghèn nghẹn:
- Em đừng mơ tưởng viển vông nữa. Mình hết ngu thì người ta mưu mẹo lên gấp năm gấp mười. Cũng coi như mình ngu như cũ. Thôi, về đi em.
Không! Không về! Phải đến nhà con kia! Nó cùng duộc với thằng mặt rỗ. Không lấy được tiền thu được của thì cũng xé tan xác chúng nó ra.
Cô gái vẫn thức, đang ngồi ngắm nghía, nắn nắn ngực mình
- Cô gì ơi! Ra tôi bảo! - Quỳ nói như quát. Cô gái thủng thẳng đi ra, vênh mặt lên, hất hàm hỏi:
- Gì thế? Tự nhiên Quỳ tịt ngỏm, không biết nên tiếp tục thế nào.
- Cô mất cái vòng phải không? - Phải. Đây là cái vòng giả! Cô lừa tôi!
Cô gái cầm lấy cái vòng, bất ngờ ném thẳng vào trán Quỳ.
- Đồ ăn cướp! Đây mà cái vòng của tao à?
Cô gái nhào tới túm chặt lấy cổ áo Quỳ, kêu to:
- Mẹ ơi! Đây rồi! Thằng ăn cắp đây rồi! Quỳ há hốc mồm, không biết nên làm gì, nói năng thế nào.
Trong nhà đi ra một người đàn bà chừng năm mươi tuổi, mặt mày xem ra phúc hậu lắm.
- Thằng này giật cái vòng của con. Bắt được, nó lại trả lại cái vòng giả.
- Không phải! Cô lừa tôi! - Quỳ vặc lại và giật tay cô gái.
- Thôi, thôi. Đừng ồn. Nhà chị đang có khách. Có gì vô nhà nói. Chuyện đâu có đó em ạ.
Bà cất tiếng dịu dàng, nghe êm như tiếng Phật bà từ trời xanh rót vào tai Quỳ. Bà tự tay mở cổng, nhẹ nhàng kéo Quỳ vào.
Vào thì vào! Cây ngay không sợ chết đứng. Chừng nào còn chưa lấy được tiền và cái xích lô thời ông còn nằm ỳ ra đấy, chúng mày không cho ông ăn thời ông ỉa ra cho mà dọn.
Bà nhẹ ấn vai Quỳ xuống ghế bành. Cái ghế to đến nỗi Quỳ thấy mình như đang tụt xuống một cái hố. Bà xăng xái đi lấy nước, rất lâu sau cầm cốc nước đi ra ấn tận tay Quỳ, ân cần nói:
- Con bé nhà chị nó cũng hư lắm. Em uống nước đi, rồi kể chị nghe đầu đuôi thế nào. Quỳ tu một hơi, quẹt mồm, nói:
- Chiều nay con đi chở khách... Thì uống nước đi đã nào. Chuyện đâu có đó mà em. Bà tươi cười cắt ngang lời Quỳ. Vô lẽ bà này lại đẻ ra con khốn nạn kia? Quỳ uống thêm ngụm nước, đang nghĩ xem mình nên bắt đầu thế nào cho vừa gọn vừa rõ ràng thì một chiếc xe Jeep đỗ xịch trước cổng. Ba người đàn ông bước vào. Hai người trẻ, một người đã đứng tuổi có cái mũi cà chua. Hai người trẻ chẳng nói chẳng rằng ập đến bẻ quặt tay Quỳ.
- Ô, sao lại thế này? - Quỳ kêu lên.
- Câm mồm! - Người mũi cà chua quát khẽ. - Lôi cổ nó ra ngoài! Quỳ ra sức trì lại nhưng không được. Tuyệt vọng, Quỳ quay mặt về phía bà chủ kêu to:
- Bà! Bà ném cho Quỳ một nụ cười khinh bỉ rồi quay lại người mũi cà chua, thở ra:
- Tết nhất... phiền các chú quá.
Người mũi cà chua cụp mắt xuống, cố gắng lễ phép với bộ ngực xốp lúc nào cũng muốn nhào ra khỏi cổ áo của bà.
- Dạ có chi... Anh đâu chị?
Bà nhỏ giọng: Anh có khách.
Người mũi cà chua liền co vai, rụt cổ, nói khẽ:
- Thôi, em chào chị, em về đây. Chị cứ yên tâm đi, thế nào em cũng lấy lại cái vòng cho cháu.
- Thôi, khỏi phiền các chú đến thế.
Bà nói và tiễn người mũi cà chua ra cổng.
Xe jeep biến khỏi cổng. Bà quay lại lườm cô gái nãy giờ vẫn ườn ra trên đi-văng.
- Cái vòng đâu rồi, con chó?
Cô gái cười rúc rích. Mẹ cũng quá lắm. Mắng nhà quê xơi xới. Cứ làm như mẹ không phải ở quê ra. Bà ngồi xuống, hực ra một tiếng cười khô khốc.
- Là tao nói thế, chứ không có chúng, bố con mày bốc cứt mà ăn. Nói rồi bà vươn vai ngáp dài.
- Khách với khứa. Giờ này còn ngồi thầm thầm thì thì.
Bà uể oải lên cầu thang. Lát sau đã nghe tiếng bà ngọt như tiếng tơ đồng:
- Âëy không. Về là thế nào. Anh đến giờ này là lộc trời ban cho nhà em đó.
Cô gái ngửa cổ cười dài, thò tay nhổ một nhúm lông ném lên phía cầu thang.
Xe Jeep chở Quỳ đến ngã tư thì dừng lại. Người mũi cà chua tự tay cởi trói cho Quỳ.
- Thôi, cho về ăn tết với vợ con.
Quỳ chẳng thấy vui sướng gì, cứ ngồi lì không chịu xuống xe. Ngồi tù còn đỡ nhục hơn về nhà kể cho vợ chuyện này.
- Con không về.
- Sao?
- Chúng nó là bọn lừa đảo.
Người mũi cà chua cười phì:
- Mày bây giờ mới biết à?
Rồi anh vỗ vai Quỳ, dịu giọng:
- Về đi em, giao thừa rồi đó.
- Nhưng, chúng nó là bọn lừa đảo! - gần như Quỳ rú lên.
- Bé mồm thôi! Mày còn nói nữa, tao lại bắt mày bây giờ!
Xe Jeep biến mất, Quỳ đứng trơ giữa ngã tư đường. Bốn ngã đường vắng hoe. Không một bóng người, cả bọn mất dạy lẫn người tử tế.


Bắc Linh Đàm 11-2001

NGUYỄN QUANG LẬP

http://vietnameseface.com/novel/D/Dem-30-Co-Moi-Truyen-Nay_603075.php

READ MORE - Nguyễn Quang Lập

Sunday, September 14, 2008

Đoàn Thạch Hãn


Khúc mùa xuân


Hẹn về cạn chén cùng xuân
Cho quên mấy thuở trầm luân giữa đời
Đốt nhang quỳ tạ đất trời
Tìm trong nắng cũ một thời hồn nhiên
Muốn về lại chốn đầu tiên
Thoát từ giọt máu ra miền khổ đau
Nói cha mẹ đã vì nhau
Dắt dìu đến tận ngày sau ngọt bùi
Ở đây chẳng có gì vui
Cuối năm lòng những ngậm ngùi cố hương
Hắt hiu lá rụng ven đường
Chiều ba mươi Tết ai thương nhớ mình


http://vietbao.vn/Van-hoa/Luc-bat-mua-xuan/40066268/106/



Lá thơ tình không gởi


Thuở lá thư đầu muốn gởi cho em
Anh mười tám nhưng sao còn nhát thế .
Thư viết bao lần chưa trao đã xé
Lời tỏ tình nắn nót vẫn còn run .
Nghe nói : Yêu thương chọn giấy màu hồng .
Mà tha thiết là màu xanh hy vọng ,
Nhưnh tuổi học trò thường yêu màu trắng ,
Anh ngập ngừng chẳng biết chọn màu chi .
Nên âm thầm để ngày tháng qua đi ,
Thư vẫn viết mà chưa lần dám gởi .
Một mùa xuân qua , mùa hè lại tới ,
Cánh thư bỗng mấy bận đổi màu xanh
Vẫn còn nguyên màu trắng ở hồn anh
Trang giấy trắng như chuyện tình trong tr('ng .
Năm học hết anh xa trường xa bạn ,
Nẻo vào đời đâu có lá me bay .
Em vẫn hồn nhiên buổi sáng chia tay ,
Cười với nắng giữa màu hoa phượng đỏ
Xe lăn bánh mình xa nhau từ đó
Lá thư tình chưa gởi vẫn còn thơm .
Anh sắp qua rồi lứa tuổi măng non
Còn ấp ủ một chuyện tình măng sữa .
Anh ở miền cao mùa hè nắng lửa
Lớp học trường đời lắm nỗi buồn vui .
Có những bình minh vác cuốc lên đồi
Nhìn đất đỏ nhớ thương màu phượng thắm
Em giữ mãi hồn anh năm mười tám
Nên xưa sau còn đỏ những bâng khuâng
Lá thư tình đã có kẻ trao em
Giờ anh viết lại ngại ngùng không gởi .


http://dactrung.net/tho/noidung.aspx?BaiID=qFy5iPZg1Pmatfsa95om5Q%3d%3d




Người vẫn quanh đây


Sáu năm, thời gian đủ để nhiều người lãng quên một cuộc tình, song với nhiều người yêu nhạc, Trịnh Công Sơn vẫn còn hiển hiện . Các ca khúc của anh vẫn còn đó, trên sân khấu, ở quán cà phê, trong lời thầm thì của những lứa đôi...Những năm tháng cuối cùng trước khi trở về cát bụi, Trịnh Công Sơn đã có một bài viết ngắn như những lời tạ từ cái cõi tạm mang tên trần gian mà anh đã sống trọn đời bằng tất cả yêu thương và tận hiến. Bài viết đó mang tựa đề: "Tôi đã mơ thấy chuyến đi của mình".

Vẫn là chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn nhẹ nhàng, sâu lắng, chẳng lẫn vào đâu được, anh mở đầu thật buồn bã: "Càng sống nhiều ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống quá khó. Hôm qua gặp nhau đấy ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm nay hôm mai. Chết thì chẳng có cuộc hẹn hò nào trước...". Rồi đang trăn trở về lẽ tử sinh của kiếp người, anh lại nói về tình yêu với một chút đắng cay nhưng ngập tràn độ lượng: "...Càng yêu ta càng thấy có tình yêu thì khó mà mất tình thì quá dễ. Hôm qua mới yêu nhau đấy, hôm nay đã mất rồi. Mất sạch như người đi buôn mất hết vốn liếng. Cứ tự an ủi mình khi nghĩ rằng mình đau khổ thì có kẻ khác đang hạnh phúc... Có người bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Có người bỏ cuộc tình mà đi như người đãng trí. Dù sao cũng đã lãng quên một nơi này để đi về một chốn khác. Phụ đời và phụ người hình như cũng vậy mà thôi...". Quả thực, không dễ dàng để thuộc lòng một bài văn xuôi như những tình khúc bất hủ của anh, nhưng không ít người đã đọc đi đọc lại đoạn văn này nhiều lần bởi họ đã bắt gặp nỗi niềm của riêng mình trong đó.

"Con đường duy nhất đi đến với người khác trên mặt đất không phải là sự độc ác mà chính là lòng nhân ái vô biên" (Trịnh Công Sơn)
Bây giờ đã là ngày cuối tháng ba, chỉ còn một hôm nữa là đến ngày cá tháng tư (l-4), ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Mới đó mà đã sáu năm tròn, thời gian đủ để nhiều người lãng quên một cuộc tình. Thế mà với Trịnh Công Sơn thì dường như chỉ mới hôm qua, vẫn mơ hồ chưa có cuộc chia ly nên cho dù anh đã xa mặt vẫn chưa đủ để cho người ở lại cảm thấy cách lòng. Tính ra, kể từ năm 1958, khi viết ca khúc đầu tiên mang tên Ướt mi cho đến ngày tim anh ngừng đập, Trịnh Công Sơn đã có 43 năm sống thủy chung với dòng nhạc riêng mình bằng cảm xúc ca từ tuyệt vời đến độ xuất quỷ nhập thần. Không ai có thể đưa ra được con số chính xác trong suốt 43 năm sáng tác đó, Trịnh Công Sơn đã để lại cho đời bao nhiêu ca khúc? Có người nói 800, có người nói 1.000, nhưng cho dù là bao nhiêu đi nữa thì âm nhạc của anh đã lắng sâu vào lòng người để trở thành bất tử. Năm 1972, người Nhật trao tặng anh giải Đĩa Vàng với bài hát Ngủ đi con (dành cho đĩa nhạc nước ngoài phát hành trên hai triệu bản) và người Pháp đã trân trọng ghi tên anh vào từ điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde cũng đủ để xác nhận Trịnh Công Sơn là một trong những thiên tài âm nhạc của nhân loại. Nhưng anh lại là một con người quá cô đơn, cô đơn bởi tâm hồn anh quá lớn, khó tìm được một tri kỷ để chứa đựng hết cảm xúc, trăn trở chất chứa trong tim. Vì thế mà anh độ lượng với đời, chan hòa với người, gửi gắm, sẻ chia, với từng bằng hữu, mỗi người một ít, dù thân hay sơ cũng được anh đón nhận bằng tất cả chân tình.

Không ít người chưa một gần gặp Trịnh Công Sơn, nhưng khi anh đi rồi, họ lại tiếc thương như một người ruột thịt. Trên đường Âu Cơ, quận Tân Bình - TPHCM, một cô gái chủ một quán cà phê đã đúc một pho tượng Trịnh Công Sơn bằng đồng đặt chính diện quán, suốt ngày nghi ngút khói hương. Một nhà giáo trên đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3 đã làm hai trang thờ đối diện nhau trong phòng khách với hai bức di ảnh được phóng lớn: một bên là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một bên là nhà thơ Bùi Giáng...

Với nhiều người yêu nhạc, Trịnh Công Sơn mãi mãi vẫn còn trong tim họ, vẫn còn hiển hiện giữa đời. Từng ngày đi qua, những ca khúc của anh vẫn vang vọng tưởng chừng như anh chưa hề có chuyến đi xa. Và như thế Trịnh Công Sơn đã quá linh thiêng khi thảng thốt viết lên những lời tiên tri: "Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây..."


Đoàn Thạch Hãnnld.com.vn, 30-03-2007.
http://www.tcs-home.org/ban-be/articles/nguoi-van-quanh-111ay/




VĨNH BIỆT “ÔNG GIÀ HAM VUI”

Thế là chẳng bao giờ còn gặp anh nữa, còn được nghe anh nói những chuyện buồn vui, một đời người như thế cũng đã là quá đủ trong cả vinh quang lẫn cơ cực và chắc chắn anh cũng chẳng còn gì luyến tiếc ở trần gian này

Có rất nhiều tên gọi mà đồng nghiệp và bạn đọc đã ưu ái gán cho tác giả Hương rừng Cà Mau mang đầy tính cách quý mến: Nhà văn Sơn Nam, nhà Nam Bộ học, ông già đi bộ... Nhưng với tôi, cái biệt hiệu mà tôi yêu thích nhất là “ông già ham vui”, bởi lẽ nó phản ánh đúng tâm hồn “ngoan đồng” của ông cho dù đã ở tuổi bát tuần.

Quả thật là hiếm hoi ở thời buổi này đối với một người cầm bút tiếng tăm lừng lẫy nhưng lại có một đời sống đơn sơ, bình dị và đầy lạc quan như Sơn Nam, ngay cả những lúc khốn quẫn trong vòng cơm áo và bệnh tật. Chẳng có triết lý nào ghê gớm cho tính cách đặc biệt này mà theo lời ông thì nghèo quá nên phải đơn sơ, bình dị riết rồi thành quen, cũng như chịu đựng mãi cũng thành chịu chơi!

Văn tài của Sơn Nam thì khỏi phải nói, nó được thể hiện trong nhiều tác phẩm mà ông đã suốt một đời miệt mài với chữ nghĩa. Có lần tôi hỏi ông:

- Làm nhà văn như anh thì sướng hay khổ?

Ông nói ngay như câu trả lời đã có sẵn trong đầu từ lâu.

- Khổ nhưng vinh quang.

Tôi lại hỏi:

- Vậy nếu được đi lại từ đầu và được quyền chọn lựa, anh sẽ chọn làm người như thế nào?

Ông móm mém cười, cái cười vừa hồn nhiên vừa chua chát:

- Tao vẫn chọn làm nhà văn nhưng sẽ cố tránh cái nghèo đeo đẳng, cái nghèo tuy không phải là cái tội nhưng là cái khổ, cái nhục chú em ơi!

Nghe anh nói, tôi thấy buồn và thương anh lắm. Hai năm trước đây, anh lâm bạo bệnh phải vào điều trị dài ngày trong bệnh viện. Người thân của anh điện thoại báo cho tôi ngay. Sau đó, tôi có một bài viết về hoàn cảnh túng thiếu của anh trên Báo Thanh Niên, nhiều đoàn thể và bạn đọc yêu quý anh đã nhiệt tình giúp đỡ anh qua cơn hoạn nạn. Một buổi trưa nằm trên giường bệnh, anh nắm tay tôi thều thào:

- Tao mắc nợ cuộc đời nhiều quá.

Tôi an ủi anh bằng những lời chân thật từ suy nghĩ của mình:

- Anh Sơn Nam ơi, cuộc đời nợ anh nhiều hơn anh nợ cuộc đời...

Kế đó là những tháng ngày lê thê anh nằm một chỗ, gần như liệt giường tại nhà sau khi xuất viện. Thế là ông già đi bộ không còn đi bộ. Một lần tôi đến thăm, ngồi bên cạnh nghe giọng anh đã yếu và mệt mỏi lắm, anh nói:

- Tao muốn về thăm U Minh một chuyến nhưng chắc là không còn kịp nữa, quê hương núm ruột ai mà không nhớ, càng già nỗi nhớ càng căng, dưới đó dạo này chắc cũng đổi thay nhiều lắm!

Tôi nghĩ tình quê thật linh thiêng, càng về già thì nỗi hoài hương càng thêm canh cánh.

Cách nay hơn tuần lễ, anh lại nhập viện, nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Chẳng hiểu vì sao gia đình anh lại chọn tôi là người đầu tiên để gọi điện thông báo. Tôi lập tức chạy đến nơi thì thấy anh đang thoi thóp thở bằng ống dưỡng khí, trên người chằng chịt những ống nhựa, những dải băng. Tôi nắm tay anh, anh mở mắt, đôi mắt không còn tinh anh như thuở nào mà đã có vẻ lạc thần. Anh lờ mờ nhìn tôi, mấp máy đôi môi như muốn nói một điều gì nhưng không nói được. Bác sĩ cho biết anh bị suy thận, suy tim nhưng quan trọng nhất là lá phổi bên phải bị viêm nặng, dường như chẳng còn gì. Và rồi hôm nay, vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 13-8-2008, anh Sơn Nam đã trút hơi thở cuối cùng.

Anh Sơn Nam ơi, 83 tuổi cho một đời người đã là quá trường thọ, nhưng dẫu thân xác anh có về với cát bụi thì tên tuổi anh vẫn còn mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau. Đó chính là cái vinh quang mà anh từng nói.

Thế là chẳng bao giờ còn gặp anh nữa, còn được nghe anh nói những chuyện buồn vui, một đời người như thế cũng đã là quá đủ trong cả vinh quang lẫn cơ cực và chắc chắn anh cũng chẳng còn gì luyến tiếc ở trần gian này.

Vĩnh biệt nhà văn Sơn Nam, vĩnh biệt “ông già ham vui”.
ĐOÀN THẠCH HÃNTheo NLĐ
www.vietducinfo.com/
READ MORE - Đoàn Thạch Hãn

HÀ THẠCH HÃN - LẠC EM





Lạc em
Hà Thạch Hãn



Ta lạc em mười năm đằng đẵng

Mải đua chen nên lạc dấu tìm về

Câu thề xưa bị áo cơm đè nặng

Mười năm dài tỉnh ít nhiều mê



Ta lạc em như chim lẻ bạn

Mười năm xa côi cút một mình

Mười năm vẫn lạc loài cánh nhạn

Bầu bạn cùng chiếc bóng lặng thinh



Bao năm rồi biết em còn đợi

Trên đường đời xuôi ngược lướt qua nhau

Nghe tiếng guốc gõ vào lòng đau nhói

Nhịp thời gian bào nỗi nhớ nhạt màu



Mười năm, mười năm ái ngại

Bao đổi thay ai đó có thay lòng

Người còn đây sắc xuân giờ ở lại

Trái tim gầy còn rung động được không



Gặp lại nhau một ngày se lạnh

Hàng cây xanh còn cần bạn bên đường

Bao xa cách chỉ e lòng ráo hoảnh

Hội ngộ rồi lại lạc lối yêu thương



Th tặng LTHY










BIỂN, GIÓ VÀ CÁNH BUỒM



Tự bao đời

Biển sinh ra để khát gió

Khát cánh buồm tri kỷ bên nhau



Không có gió, sóng về đâu hỡi sóng

Không có cánh buồm, biển sao có tri âm



Đừng cậy mênh mông

Nếu một mai cánh buồm vỡ tan trên sóng

Cơn gió lạc chân nơi cuối dòng

Nước thôi mặn nồng



Có gào thét bạc đầu

Biển vẫn cứ cô đơn !






BÀN TAY



Lúc rảnh rỗi hoặc cuối ngày, tôi thường dành thời gian nhìn ngắm lại bàn tay mình như một cách tự kiểm điểm: hôm nay mình đã thực hiện được việc gì và chưa thực hiện được việc gì.

Thường những lúc như thế lại hay lan man nghĩ về những hành vi và sắc độ biểu cảm của bàn tay con người.

Lúc yêu thương nhau, bàn tay thường tìm kiếm bàn tay, nâng niu, xiết chặt, quấn quít…

Thuở nhỏ, tôi thường có một thói quen rất kỳ lạ là hay ngắt hoặc cắn vào ngón tay út của những đứa bé. Bàn tay càng dễ thương,mũm mĩm càng dễ là nạn nhân của tôi. Chụp được ngón tay của đứa bé vô phước nào đó, tôi phải cắn cho đến khi nó khóc thét lên mới thôi. Người lớn cũng có thể trở thành “mồi ngon” của tôi, nhưng tất nhiên phải là người mà tôi vô cùng thương yêu.

Khi hờn dỗi, phân ly, bàn tay lại trở nên lạnh lẽo, hờ hững… Xa cách, bàn tay chợt lạc lõng, trơ trọi để rồi cứ phải nặng lòng day dứt khôn nguôi. Lúc cô quạnh, trống vắng lại thèm có một bàn tay ấm nồng trong tay hoặc một vòng ôm xiết chặt, vỗ về… Trong những khi mất phương hướng, bế tắc lại quay quắt cần một bàn tay chia sẻ, đồng cảm.

Lúc phấn khích, hứng khởi, bàn tay lại nồng nhiệt, dữ dội. Cá biệt, cũng có những bàn tay tráo trở, úp ngửa khó lường...

Ở một góc độ khác, bàn tay còn biểu trưng cho quyền thế của con người. Song, quyền năng lại như vốc cát- càng nắm chặt, cát càng vuột ra ngoài. Đấy cũng là một bài học, một triết thuyết nữa về bàn tay vốn nhiều sắc thái và đa cảm của con người, rất người.






THƠM THẢO QUÀ QUÊ



Hôm thứ hai, Thái Lộc ở văn phòng đại diện Huế gởi cho mình một hộp nấm tràm, một loại thực phẩm khá phổ biến ở miền Trung.

Hàng năm cứ vào mùa thu, sau những cơn mưa và đất trời trở nên dịu mát, nấm tràm lại nở rộ. Tôi vẫn nhớ những ngày khó nghèo ở quê, đến mùa nấm mọc mẹ vẫn hay mua về xào hoặc nấu canh với rau tập tàng hái sau vườn, dân dã mà ngon lạ. Gắp tai nấm đưa vào miệng , sau cái vị nhân nhẩn thoạt đầu, lại nghe vừa giòn vừa béo và thơm nồng ngào ngạt. Dường như cuộc đời cũng thế, "khổ tận" sẽ "cam lai", hết nắng là mưa và "hết khổ là vui vốn lẽ đời". Vả chăng, nếu không có niềm tin như thế làm sao người ta có thể sống hay đơn giản hơn, đủ can đảm để ăn món nấm tràm này ?

Qùa quê thỉnh thoảng mới có nên bèn mang xuống căn tin cơ quan cho mọi người cùng thưởng thức. Nhưng, Gia Tiến lanh chanh gắp một miếng đưa vào miệng bỗng…im bặt suốt cả bữa ăn. Xuân Trung cũng tò mò gắp một miếng rồi mặt cũng nhăn như khỉ ăn ớt (!)… Chỉ có một em gái quê ở miền Trung là khen ngon và ăn lấy ăn để.

Tất nhiên, lần đầu ăn nấm tràm quả không dễ. Nhưng đối với những người quen ăn, chính cái vị đăng đắng ấy mới có sức quyến rũ ghê gớm và không thể phai nhoà trong tâm thức, dù có tao tác xa quê tận chân trời góc bể.

Vâng, khẩu vị mỗi người thường được định hình qua nhu cầu của thể trạng và quan trọng hơn, đó là thói quen. Chính vì thế mà có những người dù không thiếu cao lương mỹ vị, dù biền biệt tha hương cầu thực nơi xa ngái vẫn quay quắt nhớ mắm kho, canh thập cẩm, dưa cà…Cô bạn tôi kể rằng, có ông anh rể tuy đã định cư ở nước ngoài hàng chục năm nhưng hễ có người trong nước sang là đều nhờ gửi cho anh một ít mắm ruốc, mặc dù để đưa cái thứ quà quê “khó chịu” ấy qua được cổng an ninh sân bay quả trần ai khoai củ !

Rõ ràng, đã là thói quen thì không dễ đổi. Sau những thay mới, bao giờ người ta cũng cần có thời gian để thích ứng, lâu dần thân thuộc và hình thành nên thói quen. Thế nhưng cũng có những thói quen kỳ diệu đến độ, bất chấp cả không gian, thời gian mà trường tồn bất tận: thói quen yêu đương như một thứ men gây nghiện. Chả thế mà không phải không có lý, người đời vẫn nhìn nhận rằng “tình cũ không rủ cũng đến” đó sao ?







NỢ EM



Ta nợ em một lời thề hẹn

Không trăm năm vàng đá đủ đầy

Không có cả một đêm trọn vẹn

Muối nhạt rồi gừng cũng thôi cay



Ta nợ em những ngày sống nhọc

Đi bên ai lòng vẫn bên này

Một đêm nằm mấy lần thầm khóc

Giấu phận buồn trong chiếc khăn tay



Ta nợ em món quà sự sống

Không oa oa không cả hình hài

Em hi vọng để rồi thất vọng

Không sinh thành ai đó với ai



Ta nợ em cả đời mắc nợ

Cả đời ngu ngơ cho ít nhận nhiều

Nhân thế rộng mà trái tim bé nhỏ

Đến bạc đầu vẫn con nợ tình yêu



HÀ THẠCH HÃN
Nguồn: 360.yahoo.blog/hathachhan
READ MORE - HÀ THẠCH HÃN - LẠC EM

Võ Quê


Sinh ngày 7.3. 1948

Quê quán: An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên Huế.

Hội viên các Hội : Hội Nhà Văn Việt Nam, Hội Nhà Báo Việt Nam, Hội Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam.

Công tác hiện nay: Chủ nhiệm CLB Ca Huế.

Các tác phẩm đã xuất bản: "Ngựa ca" thơ in chung Trần Dzạ Lữ, Trần Bản Thiểm (1969); "Chị Sáu", truyện ngắn-Tổng Hội Sinh Viên (THSV) Huế ấn hành (1970); "Nguồn mạch mới", thơ in chung với Thái Ngọc San-THSV Huế ấn hành (1971); "Giọt máu ta một biển hòa bình", kịch thơ-THSV Huế ấn hành (1971); "Nhờ ơn cây lúa lúa ơi!", thơ thiếu nhi-Đối Diện XB (1975); "Ngợi ca", tập thơ-Hội VHNT TT Huế XB (1993); "Mười thương em bé", thơ thiếu nhi, giải thưởng VHNT Cố Đô lần thứ nhất (1993);"Tiếng Hương Bình", sưu tầm lời ca Huế, giải thưởng Hội Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam (1997); "Khúc tri âm", lời ca Huế, giải thưởng UBTQLHCHVHNT Việt Nam (2001); "Thơ một thuở xuống đường", giải thưởng đặc biệt UBTQLHCHVHNT Việt Nam (2002); "Lửa đường phố", tập hồi ký-NXB Thuận Hóa (2003)




Một ngày Đông Hà


Đông Hà hạt nắng ngời sương

Tinh khôi hoa cỏ ươm hương tặng đời

Nụ hôn thơm mỗi môi cười

Em tìm ai giữa cõi người đa đoan



Đông Hà gió sớm mơn man

Tự tình sông Hiếu sóng tràn bờ yêu

Nón nghiêng hứng cả ánh chiều

Em đang ngược nắng bóng treo gợn buồn



Đông Hà khoảnh khắc mưa tuôn

Cơn giông ngày hạ chớp nguồn biển xa

Thương bông khế tím hiên nhà

Em chờ ai nỗi niềm xưa sang mùa



Đông Hà hiền thục trang thơ

Con trăng khuyết giữa đôi bờ sắc không

Mân mê chéo áo xuân hồng

Em về bất chợt rối lòng người đi



Gió Làogió Lào ơi!

ta lại về với gió

gió La Vang

gió Sắc Tứ

gió Đông Hà...

gió Lào thơm

của tóc

của da

vầng trăng hiện ban ngày

Quảng Trị

gió Lào thổi mùa Vu Lan gợi nhớ

tiếng kinh cầu

quá khứ chợt hồi quang

bằng hữu bên nhau

hạo khí mang mang

những trầm tích buồn vui

gió Lào lãng mạn

gió vô cùng nâng ta vào vô hạn

ta tìm nhau

khinh khoái gió ơi

Đông Hà

15.8.05

www.vanchuongviet.org





TÍM CHI NHIỀU RỨA HUẾ ƠI !

Tạp bút


Tạo hóa sinh ra màu sắc để làm đẹp cho trái đất này. Xanh đỏ đen trắng tím vàng...muôn hồng nghìn tía. Nhưng người ta không phải ai cũng giống ai nên người thì thích màu này, người thì ưng màu nọ. Riêng màu tím Huế thì khi đến Huế trong năm học lớp đệ nhất Quốc Học Huế (1968-1969) tôi mới dần bắt gặp những điều kỳ thú.



Là một cậu học trò Nguyễn Hoàng Quảng Trị mới vô Huế ban đầu điều chi của Huế cũng làm tôi bỡ ngỡ bắt tôi phải tò mò tìm hỏi. Té ra nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa có đồng phục áo dài màu tím. Té ra màu tím tượng trưng cho niềm mộng mơ của độ xuân thì, của lòng thủy chung như nhất với tình yêu muôn nơi muôn thuở. Té ra cô học trò Đồng Khánh mà tôi và bạn bè lẻo đẻo sau lưng theo về mỗi ngày cũng mê màu tím. Nguyễn Cửu Thanh, anh bạn cùng lớp tôi "chỉ điểm": "Cô nớ tên là Tiểu Kiều học lớp đệ tứ Đồng Khánh, nhà trong thành nội. Khi mô trời mưa, trời lạnh là dễ nhận ra cô ta. Vì Kiều thích màu tím nên áo len tím, áo mưa tím, quai nón tím, khăn quàng tím, dép cũng tím...". Tiếp nhận thông tin là tôi tìm cách quan sát và tiếp cận liền. Dịp may đến với tôi vào một buổi sáng khi Thanh phát hiện người mê màu tím đang đứng với một cô bạn trước quán sách Hương Bình trên đường Lê Lợi. Thì ra người ấy đang đứng xâu chiếc dép bị đứt quai. Vốn đã mong có dịp làm quen lại có "máu nghĩa hiệp" nên tôi mạnh dạn mở lời: "Tiểu Kiều đưa mình xâu giúp cho kẻo sắp tới giờ sau rồi!". Trong khi cô học trò tên Tiểu Kiều đang lưỡng lự tần ngần với chiếc dép tím, với sợi chỉ tím dễ thương và cây kim mỏng manh chưa muốn đưa cho chàng trai lạ thì người bạn Tiểu Kiều có bảng tên Bạch Yến giục: "Thôi mi đưa cho họ xâu cho mau". Không ngờ sợi chỉ tím một thời mộng mơ của cô nữ sinh Đồng Khánh ấy sau này lại trở thành sợi "chỉ tím" của ông Tơ bà Nguyệt xe kết đời tôi với cô gái yêu màu tím ấy.



Từ chuyện riêng tư đó, tôi lần theo những màu tím của hoa bâng khuâng, hoa mua, hoa sim...trên đồi Thiên An, Vọng Cảnh...Màu tím của hoa sầu đông, hoa tầm xuân, hoa cúc, hoa cà, hoa ti-gôn...trong từng khu vườn Huê. Màu tím của hoa tử bạch ở những ngôi chùa Bảo Quốc, Thiên Mụ, Tường Vân...Màu tím của hoa tử vi (còn gọi là hoa phấn thệ hồng) trong đại nội và được khắc trên Cao đỉnh trước Thế Miếu, được hát thành điệu Lý tử vi trong dân ca Huế "tử vi dầu dãi nắng sương, huê cam huê quýt em thương huê nào, em thương huê mận huê đào...". Màu tím của hoa ngô đồng trên Khiêm lăng, bên điện Thái Hòa. Hoa ngô đồng tím ngắt chiều thơm, anh mời em ngắm màu hoa tím. Hiểu nhau rồi tình yêu bất biến, chim phượng hoàng gọi bạn đậu cành ngô. Thời gian gần đây những con đường Huế lại có thêm màu tím của hoa bằng lăng, hoa phượng tím.



Màu tím Huế không dừng lại trên các đài hoa. Màu tím Huế còn hòa sắc trong các trạng thái tinh thần, trong tình cảm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc. Cùng hòa sắc trong từng khoảnh khắc thời gian, trong mây trời, sông nước Hương Giang, trong y phục, trang sức, ẩm thực Huế...để từ đó màu tím trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn nghệ sĩ trên mọi miền đất nuớc xiển dương, ngợi ca bằng nghệ thuật tạo hình, bằng thơ văn, âm nhạc...Đọc Tuyển Tình Khúc Huế Thế Kỷ 20 gồm 100 tác phẩm do Nhà xuất bản Âm Nhạc Việt Nam ấn hành (4. 2002) thì đã có 4 ca khúc có chữ "tím" trong tựa đề như: Tà Áo Tím (Hoàng Nguyên), Màu Tím Huế (Vũ Trọng Tường), Ngàn Thu Áo Tím (Hoàng Trọng-Vĩnh Phúc), Màu Áo Tím Và Màu Áo Trắng (Hoàng Vân) và có 14 ca khúc của các nhạc sĩ sau đây: Thế Bảo, Phạm Trọng Cầu, Dương Đức, Hồng Đăng, Quốc Dũng, Hoàng Hiệp, Trần Hoàn, Lê Việt Hòa, Mai Xuân Hòa, Tôn Thất Lan, Văn Phụng Huy Tập, An Thuyên, Thuận Yến nhắc tới màu tím Huế với các hình ảnh áo tím, mây tím, sương tím, hoa tím, thời gian tím...



Riêng thơ ngợi ca màu tím của Huế thì không thể nào thống kê cho hết. Nếu có điều kiện để tuyển chọn một tập thơ có những câu thơ hay về màu tím Huế cũng là việc mà các nhà biên soạn nên làm bởi đây cũng là một trong những nét riêng của Huế. Trước năm 1975, khi còn ở Hà Nội tôi thường nghe ba tiếng màu tím Huế. Cái chi mà có màu tím thì người ở đây gọi "màu tìm Huế". Màu tím mình thích, người tình mình mê được là "tím Huế" thì sướng biết mấy, vui biết mấy. Tôi cũng thấy ấm lòng trong lúc xa quê. Mới đây thôi, từ Cali nước Mỹ xa xôi, có lẽ vì quá da diết nhớ Huế mà anh Trần Kiêm Đoàn đã thương về tím Huế trong bài thơ "Vàng Thu Tím Huế" với những kỷ niệm, với những hồi ức trữ tình: Huế vào Thu mà không biết mình Thu/ Vì lá đỏ chút vàng mơ ai thấy/ Tim tím buổi chiều mai hồng trở lại/ Vẫn xanh ngời con nước Vạn Niên...Tuổi hoàng thành như màu mắt trong đêm/ Nghìn phai cũ trang tình đầu chưa giở/ Xa Chiêm quốc thuở "ngó tề, dị rứa/. Mỏi chân đời còn tím Huế không em?"



Màu tím của phương trời Huế theo thời gian cứ nhập vào tâm thức tôi trong những lần lang thang cùng Huế. Khi thì lặng thầm sau mái tóc thề của cô gái Huế đường phượng bay đỏ lối em về, chiều nội thành dịu dàng bay áo trắng, dòng Hương xanh chuồn chuồn bay đón nắng, hoàng hôn đầy thoáng tím mây bay. Khi thì một mình thèm gặp bạn trong chiều Vọng Cảnh nâng ly hào sảng đón hoàng hôn, sông Hương xanh mặt trời rực đỏ chợt hòa tím sắc quê hương...và ước mơ những sắc màu thiên nhiên Huế đan quyện vào tâm hồn tình cảm con người những mạch nguồn sinh động rất nhân văn: xanh trong em làn hương dòng sông, đỏ trong tôi ánh trời Vọng Cảnh, tím trong nhau hồn nước thủy chung.



Tím trong nhau hồn nước thủy chung. Hòa sắc tím một đời tôi tìm thấy. Hòa âm tím một đời tôi tìm nghe. Hương mùa tím một đời tôi ngưỡng mộ...Huế dấu yêu ơi! Tím chi mà tím rứa!




CA HUẾ VỚI DÒNG HƯƠNG


Tạp bút



Cung bậc trăm năm một thời vàng son tưởng đã chìm vào quên lãng vì đất nước có những ngày truân chuyên, gian khổ, can qua, nhiểu nhương. Nay mùa xuân mới đang mở ra những giai điệu mới. Ca Huế, một loại hình âm nhạc dân tộc, truyền thống đang tìm lại chính mình giữa một trung tâm được thế giới công nhận là di sản văn hóa của loài người.

Mái chèo trăng, con thuyền mộng, ngàn sao khuya lấp lánh, nét mờ ảo sương sa…tất cả vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên đang hội tụ cùng dòng sông Hương êm đềm là sự cộng hưởng tuyệt vời đã nâng tầm bay cho ca Huế.

Nghệ thuật ca Huế vốn kén chọn không gian, thời gian và người thưởng thức cũng là người sành điệu mang tính tri âm, tri kỷ. Ca Huế đang theo mùa xuân lan tỏa, thấm sâu cái tình dạt dào vào những tâm hồn thanh khí, thuần khiết, sang trọng đang được chắt chiu, nâng niu, gìn giữ.

Nội dung những bài ca Huế không chỉ ngợi ca thiên nhiên bốn mùa phong hoa tuyết nguyệt mà còn xiển dưong ngày mới, trân trọng những khát vọng, ước mơ về tình yêu, về một ngày mai hạnh phúc bình yên, chan chứa tình người có thủy có chung.

Từ mạch nguồn sinh động của quê hương những làn điệu ca Huế bay bổng dập dìu, phóng khoáng hơi thở xuân thì xứ sở. Non nước Hương Bình từ đó được thăng hoa cùng âm nhạc. Điệu hát cung đàn hòa nhập tinh anh cùng núi sông muôn thuở.

Ngày nay khi đến viếng thăm Huế, du khách trong và ngoài nước đều có một sở thích chung là muốn được thưởng thức ca Huế tổ chức dưới dạng thính phòng hoặc đi thuyền trên sông Hương. Trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng, nhất là những đêm trăng thanh gió mát, sông Hương với vẻ đẹp kỳ ảo được đan quyện vào hòa thanh réo rắt của cung đàn lời ca càng dễ dàng say đắm lòng người.

Con thuyền nhẹ nhàng trôi, dưới nước trên trăng, từng cung bậc bổng trầm buồn vui khi thổn thức, khi thanh thoát dìu dặt với những lời ca giàu tính văn học, mang bản sắc chốn thần kinh văn vật đã tạo cho người nghe sự đồng cảm với thiên nhiên, với con ngưỡi xứ Huế vốn thầm lặng mà hiếu khách, dịu dàng mà đắm say, sự đắm say nghệ thuật.

Dòng sông Hương, thuyền trăng và cung đàn lời ca Huế luôn mời đón những tâm hồn đồng điệu. Và chính những tâm hồn đồng điệu cao khiết ấy đã nuôi dưỡng, bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật ca Huế tới muôn sau.




Mưa Cần Thơ

Mưa Cần Thơ rất hồn nhiên

Đã mưa là vội hôn lên tóc người

Đã mưa là ướt vai đời

Bao nhiêu tinh túy hạt trời hiến dâng


Mưa Cần Thơ rất tình thân

Núp mưa ai cũng tần ngần tìm quen

Không chừng những cuộc tình riêng

Nhờ chung mái phố chung miền mưa qua


Mưa Cần Thơ rất hào hoa

Đã mưa là vội thơm tà áo em

Trong mưa dường có hương nguyền

Mưa ngày lãng mạn mưa đêm đợi chờ

Mưa Cần Thơ mưa Cần Thơ…


www.vanchuongviet.org




Viết Trên Dòng Sông Hậu

Một mình anh qua dòng sông Hậu

Một mình anh trong mênh mông

Giọng hò khuya vời vợi trữ tình

Mang mang một miền sông nước



Không có em cùng anh sang sông

Con sóng vỗ bồng bềnh

Không có em cùng anh lênh đênh

Lục bình tím dập dềnh

Mái chèo khua thầm thì đêm sông Hậu



Anh xa em đã mấy triền sông

Ước mơ về một ngày yêu dấu

Anh và em thong dong

Thuyền chung tìm bến đậu



Đêm lung linh ngàn sao xanh trời cao

Vì sao nào là mắt em

Anh vừa tìm thấy

Ôi đôi mắt dịu dàng ưu ái

Soi đường anh đi mấy sông dài



Những vàm sông bao la

Tâm hồn anh cũng dạt dào sóng vỗ

Một mình anh

Một trời sao tỏ

Một trời sao

Em hiện với sông dài...

THƠ TÌNH NHỮNG BÀI RỜI
Khi Ngày Tới

Giấc mơ đêm em đến nhẹ nhàng

Khi ngày tới anh hút về phương ấy

Sức sống nào nâng tình yêu dậy

Hai chúng ta đang thuộc lòng nhau?


Mật Và Trái

Khổ đau em là mật

Đắng môi anh một đời

Hạnh phúc em là trái

Chín thơm một cõi người



Lời Chúc
Chúc những bữa cơm của em

Có thêm một người so đũa

Chúc lối về nhà em sáng vấng trăng tỏ

Chúc mai sau đời em luôn có anh

Em
Em là đồng tử mắt tôi

Lời thì thầm của đêm nhủ thế



Em là đồng tử mắt tôi

Không thể khác

Tâm hồn tôi nhủ thế



Giọt mưa rơi trong khuya

Gửi một cung đàn rung dịu nhẹ

Em là đồng tử mắt tôi!


BAN KHUYA
Tuỳ bút


Đêm đêm, tôi có niềm vui lặng thầm ban khuya. Ban khuya. Tôi thích được nhìn ngắm trăng sao đang cùng thức trên trời cao xanh. Ban khuya. Tôi thường lang thang qua những con đường thực và ảo giữa trần gian nhiều duyên với nghiệp. Ban khuya. Tôi hay lắng nghe âm thanh diệu vợi thuần khiết từ bốn mùa thiên nhiên đồng nội. Ban khuya. Tôi được tiếp nhận từng làn hương trinh tuyền từ những ngôi vườn đêm tịnh yên. Hương báo hỷ lan. Hương ngọc lan. Hương dạ lý. Hương nguyệt quế...Gió ban khuya thơm nhẹ nhàng, hào hoa một áng mây tình tinh khôi, thanh khí.

Và trong cõi tịnh yên tôi nhìn thấy sáng lên ngọn đèn khuya từ ngôi nhà em bình an. Tôi hình dung được bản nhạc em đang nghe từ căn phòng thiếu nữ. Giai điệu đẹp mượt mà, trang trọng như tính cách tâm hồn em khi em giành cho nghệ thuật. Gương mặt em ửng lên, liêu trai. Đôi mắt long lanh tia nhìn em nhân hậu. Tôi hình dung em đang trò chuyện cùng người thân quen nào đó giữa khuya dài. Mười ngón tay em mềm mại lướt nhanh. Bàn phím ngân lên âm điệu. Thủ thỉ. Thì thầm. Những dòng chữ khiêu vũ trước mắt em thành nhạc, thành lời. Em đang chân thật gửi tiếng lòng mình lên từng con chữ.

Ban khuya. Tất cả đều trở nên thân thiện, lắng sâu. Tôi tự thấy mình thanh thản trong thời điểm dễ thương này. Nguồn yêu quý thảo hoa. Lòng kính trọng thế gian trong sâu thẳm hồn tôi sao trở nên dào dạt. Tôi càng thấy mình phải ước mơ, phải khát vọng về một cõi bình yên cho thảy thảy người người.

Và với riêng em. Tôi thầm mong: ngọn đèn khuya em đừng vội tắt đi vầng sáng. Tôi biết không chỉ riêng gì tôi đang trân trọng đốm lửa từ ngôi nhà em hạnh phúc. Mà đốm lửa từ ngôi nhà em cũng là niềm hy vọng, là sự chờ đợi của bao người đang dành cho em vô vàn thân ái.

Ban khuya. Khoảnh khắc thời gian tôi hằng mong. Ban khuya. Ban khuya...





HUẾ SANG THU

Tuỳ bút


Âm thầm. Lặng lẽ. Mùa thu phát tín hiệu bằng ngọn gió se lạnh ban mai. Bằng sắc trời chiều xám mây. Bằng hương nguyệt quế dịu nhẹ trong từng ngôi vườn Huế trăng non lung linh cành giáng châu. Hình ảnh học trò trở lại những ngôi trường thân yêu cũng là tín hiệu mùa thu.

Huế sang thu. Thu thường gợi trong tôi từng giây phút cảm hoài về những người thân yêu đang vắng mặt, cách ngăn. Là mẹ hiền trên chín mươi bao tháng năm rồi với các em trên xa ngái DakNong. Là Ca Dao từ lâu một mình một thân chốn phù hoa đô hội Sài Gòn. Là Sao Khuê độc hành viễn du nơi phương trời Áo. Là bằng hữu thâm giao mười phương mất còn bao tháng năm biền biệt. Là bạn bè nam nữ mới kết giao đồng điệu nòi tình. Lớn lên rồi ai cũng mỗi người mỗi hướng. Ai cũng có những cuộc chia ly nụ cười hay nước mắt. Những ngã ba đường lớn nhỏ, những vàm sông đục trong đã đưa ta vào mê lộ cuộc đời. Đôi lúc ta khó tìm một định vị bình an tâm thức.

Thu về với Huế. Tôi thèm được lang thang trong khuya với Huế. Lâu lắm rồi tôi thiếu những đêm một mình qua các ngã đường khuya. Cột đèn vàng lắt lay bóng lá. Đêm Huế hiền lành cánh tay người mẹ. Đưa tôi về là một áng trăng chênh. Lâu lắm rồi tôi không còn cái cảnh đêm đêm lặng lẽ trở về. Đường chợt dài theo khuya, lá rớt. Nỗi cô đơn trên hồn tôi choáng ngợp. Chiếc bóng mình nghiêng ngửa mặt đường khuya...Đêm Huế mùa thu bình yên trong ký ức, trong bồi hồi cảm xúc nao lòng. Đêm Huế mùa thu dễ xui khiến mình sống nhân ái hơn, sống đẹp hơn có nghĩa, có tình.

Và em, người thơ của tôi! Tôi hình dung em cũng đang theo mùa thu về trong phương trời Huế đằm thắm, dịu dàng. Em là sắc thanh hương giữa không gian trầm lắng Huế. Em hóa thân thảo hoa. Em hiện hình kỳ ảo. Cùng mùa thu em nuôi dưỡng ngọn nguồn yêu thương, sáng tạo trong tôi. Biết ơn mùa thu. Biết ơn em. Những dòng chữ ngân lên tiếng nhạc. Mùa thu và em đang thì thầm cùng tôi: Ta trân trọng đời nhau!


www.voque.org/



Đêm phố núi


Phố núi đêm trăng nghiêng

Một mình nghe tiếng suối

Ta nhập vào thiên nhiên

Lá rừng khô về cội



Thương mẹ đã bạc đầu

Còn dặm ngàn rui rủi

Thương em tóc xuân thì

Rụng sợi buồn góc rẫy



Phố núi khuya lạnh gió

Chập chùng dốc ngược xuôi

Ta mãi thành hạt bụi

Lang thang bay đất trời



Phố núi chìm trong sương

Ta tìm em tìm mẹ

Đất đỏ nhuốm chân buồn

Tiếng chim nào hót khẽ



Phố núi rồi phố trăng

Giọt sương là giọt tình

Thương em rồi thương mẹ

Phố núi nhập nhòa nghiêng

VÕ QUÊ

ĐỌC THÊM:

LỤC BÁT ĐẶC SẢN

Võ Quê và thơ lái - Mai Văn Hoan
READ MORE - Võ Quê