KÝ ỨC QUÊ NHÀ
Tùy bút
Lê Sinh
1- Ở giữa làng là xóm chợ, bên cạnh đường quốc lộ vắt ngang, mùa đông về trên những chòm hoa sầu đông đứng lặng lẻ.. Chiếc cầu sắt bắc qua sông như nhón chân đứng nhìn một chiếc cầu xi-măng bên dưới đã gảy nhịp từ thời Pháp thuộc. Con sông Ô Khê hiền hòa chia hai thôn, nước êm đềm chảy qua đôi bờ yên ả. Những bờ tre làng rợp bóng soi mình trên mặt nước trong xanh.
Ký ức trong tôi với những tháng ngày hai buổi đi về, lòng cứ nhớ mãi về những mùa đông làng xóm chìm ngập một màu trắng xóa vì cơn lụt. Những chiếc thuyền xuôi ngược giữa “đại dương” nước mênh mông, nước bạc màu đến bất ngờ, nước tuôn vào sân, vào nhà rộn vang những tiếng bì bõm khi lội trong nước, làng trên xóm dưới gọi nhau í ới, mùa xuân đã đến ngoài hiên và nước vẫn ngập đầy vườn.
Đâu dó tiếng nghé ọ trên cánh đồng vàng mùa bội thu, tiếng hò đối đáp rộn ràng trong mùa gặt, tiếng kẻo kịt của những chiếc đòn gánh nhún nhảy trên những đôi vai người nông phu. Những bát nước chè xanh bốc khói bày ra trên sân với đêm đập lúa, những ông già rung rinh chòm râu bạc khề khà nhấp chén rượu đầu mùa.
Đêm treo lơ lửng ngọn trăng trên đầu, trăng bàng bạc khiến không gian càng tỉnh lặng, trăng soi sáng vườn khoai đang bắt đầu lên ngọn, vườn chè xanh biếc dưới ánh trăng dịu hiền, những bờ tre trở mình rên kèn kẹt, thoảng dưới ánh trăng là tiếng hò giả gạo khoan hụi dìu dặt rộn niềm vui ngày mùa. Làm sao nói hết cái lâng lâng giữa đêm trăng qua làng! quá mường tượng, kỳ ảo.
(Con đường đó tôi và em từng dìu bước nhau đi biết bao lần, con đường của kỹ niệm ngàn đời ẩn nấp trong tim đứa con trai thời mới lớn. Lời thề xa xăm: Mai sau nếu có xa nhau cũng không quên con xóm cũ dòng sông xưa với chiếc cầu đi về hai xóm. Thế rồi em đã ra đi, đi biền biệt với một khung trời đầy kỹ niệm cháy bỏng trong tôi, lời thề hẹn đó đã vội vàng chôn ở nơi con dốc đầu làng khi hai đứa cầm tay từ biệt và đã ở lại đó vĩnh viễn. Tôi cũng ra đi ôm theo mối tình đầu đau đớn, đứng ngắm nhìn quá khứ chưa một lần trọn vẹn, hỏi em giờ này còn nhớ gì không, quê hương hai tiếng nặng lòng cho đến lúc nhắm mắt, quê hương với những sớm mai, những chiều về tay trong tay kể nhau nghe những chuyện vui buồn, những ước mơ thời trẻ dại. Lần đầu gặp em e ấp dưới chiếc nón lá, áo dài màu tím với nụ cười long lanh dưới nắng chiều, hoàng hôn rãi cùng khắp xóm làng, em đã mang đến cho tôi cái ngày mà cuộc đời bắt đầu biết vui buồn chờ đợi.)
Chiến tranh đã đày ải làng quê với ngày đêm đì đùng tiếng súng, chiến tranh đã cướp đi tháng năm bình lặng, yên ả. Trai tráng lên đường để lại những cánh đồng trơ gốc rạ, trâu bò không người cày lơ lửng bước trong đêm.
Con đường qua làng nhiều lần bị cắt chia bởi đạn bom và chiếc cầu cũng không tránh khỏi nỗi đau số phận, đã sụm xuống giữa dòng, lỡ nhịp đôi bờ hai thôn. Những tiếng khóc và những chiếc quan tài mang dấu hiệu binh lửa cứ trở về đốt cháy thân xác quê hương, những mái tranh ngập chìm khói lửa, chiến tranh đi qua bỏ lại xóm làng xơ xác gảy đổ, giáo đường trơ nóc, đình chùa ngã nghiêng.
Những trảng cát bây giờ đã lấp đầy những ngôi mộ nằm san sát, những hàng Bạch đàn mọc thẳng tắp thay thế tre làng bị thiêu cháy, lớp lớp người đi không trở về, có người xác thân còn nằm lại đâu đó. Biệt ly và chia rời ngày một lớn dần thêm, xóm nhỏ bổng tiêu điều sau những cơn mưa bom bão đạn.
Rồi người cũng quay về khi hòa bình trở lại. Trên bờ đê những trai tráng trong làng vai vác cày theo sau đàn trâu chậm rải bước, đồng quê lại rộn ràng tiếng cười tiếng nói sau mùa binh lửa, những cụ già lại khề khà chén rượu bên bầy con cháu vui đùa ngoài sân. Con đường về xóm dưới bây giờ đã được bắc qua sông một chiếc cầu chắc chắn thay chiếc cầu tre đã gảy nhịp từ lâu rồi, ngày tôi đưa em qua chiếc cầu này với bao rộn ràng của con tim mới lớn, em bảo giá mà hai ta suốt đời đưa đón đi về, thế rồi em bỏ đi mà không bao giờ quay lại.
Sông xưa vẫn nước chảy hiền hòa, nuôi nấng đồng ruộng quanh năm, tre làng vẫn kẻo kẹt rung rinh trước gió, tre che mát cho đời người nông phu quanh năm lam lũ, trong vườn đã sum suê, rập rờn từng nụ hoa cà, hoa bí mang lại cho người niềm vui bình dị, những mùa đông đến sớm, bà con được ấm lòng với những củ khoai luộc hay những trái bắp ngô nướng thơm giòn, niềm vui ấm áp nhân đôi với tiếng hít hà phả ra những làn sương trắng trên đường đến trường. Thầy cô, bạn bè đã trôi đi khắp bốn phương trời, mỗi người một đoạn đời riêng rẻ, có mấy ai quay về đúng trước mái trường xưa để ngậm ngùi với những tàn phá của ngày xưa cũ?
Ở đầu làng là ga xép quanh năm phơi mình dưới trảng cát trắng xóa, nằm chờ những chuyến tàu qua hiếm khi dừng lại. vẽ đìu hiu trùm lên vài người khách lẻ lên xuống từ đầu hạ đến cuối đông, một mình đi, một mình về thui thủi, lòng lại nghẹn khuất với những hồi còi tàu kéo lên giữa không gian xám xịt . Tiếng còi như ứ nghẹn ở trong tim, ôi những tiếng còi tàu buồn bã trườn qua làng sao nghe đến não nuột. Ngày tôi tiễn em đi sân ga chỉ có hai người, tay trong tay bịn rịn nói lời chia biệt, hẹn hò, em nước mắt lưng tròng ngã lên vai tôi, chiếc khăn tay em thêu tên hai đứa lồng vào nhau nghẹn ngào đưa tay vẫy khi tôi làm người ở lại, con tàu bỏ đi mang theo em làm cho tôi thêm quạnh hiu tiếc nhớ. Ngày đó đã qua mất rồi .
Cô đơn xưa hình như trở lại quanh đây, nơi đó tít mờ ánh sương mai, nơi lung linh nắng chiều rọi soi ngày đầu tôi gặp em, nụ cười rạng rỡ tỏa sáng quanh em, làm sao tôi nói hết nổi bồi hồi xao xuyến với một buổi chiều đầy kỹ niệm
Em còn đó với hiện thân của một bóng hình miên viễn quanh tôi, vẫn dịu dàng với hai bàn tay vẫy, vẫn đong đưa từng nhịp bước, từng tiếng thở dài về một mối tình đến sớm đầy tràn niềm hạnh phúc nhưng cũng rất đỗi mong manh của thời trẻ dại.
Ngày tôi đưa em qua chiếc cầu chông chênh, không lối nhỏ về nhà, em chợt im lặng níu giữ một mối tình vừa mới hái, hạnh phúc bàng bạc, sương khói, ngày em đi qua nhà tôi, bước chân không hề có tiếng động, dấu kín một mối tình. Em trong tôi cuộc tình đầu chứa chất bao đắng cay khốn khó.
Tôi một mình biết bao lần quay lại nơi xưa tìm kiếm mối tình đầu dù trải qua những tháng năm dâu bể, ngược xuôi, em về một phương trời xa xăm nào đó để lại trong tôi ánh mắt nụ cười, điều đó đã theo tôi suốt đoạn đời còn lại, đã mang trong tôi dấu ấn đậm đà, hỏi em có còn nghĩ lại, hỏi em có còn nhớ về ảnh hình của thời xưa cũ, giấu trong tim hết cả thời mới lớn?
Em đi rồi làng xóm bổng chìm khuất trong nổi buồn lặng lẻ, không gian u trầm trong sầu vạn cổ, những ước mộng ban đầu, đắng cay theo bóng hình em. Có thể trong tôi vẫn mãi giữ những kỹ niệm buồn, có thể trong em vẫn ẩn chứa hình dáng quê hương, nơi đó được đặt tên là nơi trú ngụ của tình yêu.
Có chăng mong một lần quay lại, trở về bên sông cũ, xóm nghèo xưa để nhớ để nghĩ về cuộc tình tan vỡ, đau đớn cho đến lúc bạc mái đầu có còn để gọi nhau là cố nhân không ?
Ở giữa làng là xóm Chợ nơi em ngày hai buổi sáng chiều quang gánh, vẫn khuôn mặt đỏng đãnh, nụ cười chúm chím, em đã để lại trong tôi nỗi u hoài của những nụ hôn xa, của con tim liên hồi đập mỗi lần đón đợi người thương, em còn lại trong tôi những đêm trăng hò hẹn, những đêm lễ hội, lòng hồi hộp dưới ánh trăng cổ tích, tay cầm tay lãng đãng đợi chờ .Thế rồi em đi, xóm làng xưa vẫn bên biền cuối bãi, con sông xưa vẫn đổ từ triền núi ra biển cả.
Ngày đó ai mơ một ngày về.
2- Lần lửa hẹn mãi lòng một lần quay về với Bến Đá, nơi quê nhà xưa đã một thời tắm mát bên dòng sông Ô-Khê xanh biếc hiền hòa, nơi những người thân hai mùa mưa nắng dầm mình trên đồng chiêm cày ải, nơi tiếng chim bìm bịp kêu chiều theo con nước, nơi tuổi thơ tôi vốn sinh ra trong một gia đình khó khan, lam lũ…
Ngày tháng rồi cũng đi qua, nhiều lần tôi đã về ngồi lại bên sông, bên chiếc cầu tre gảy nhịp nhìn dòng nước chảy, nhìn bóng chiều tà đậu dài hai bên bờ ngẫm nghĩ đến đời mình cho đến khi chiều tối. Tôi vốn sinh ra nơi quê nghèo, nơi đây ngày xưa ăm ắp những tiếng hò ngọt lịm, gạo trắng trăng thanh, thế nhưng sau chiến cuộc mọi chuyện đã đổi thay không còn nữa, biết đến bao giờ, đợi đến bao giờ cho quê nhà thay da đổi thịt.
Quê ơi cứ hẹn một lần về.
Tôi mất cha từ năm lên một, mẹ tôi ở vậy tảo tần sớm hôm nuôi tôi khôn lớn. Những đêm, những ngày quanh quẩn sau lũy tre làng với con đường quê hai bữa đến trường, ngoài những buổi học tôi thường phụ mẹ tôi bắt ốc mò cua, mót khoai mót lúa. Cuộc sống cơ cực ở thôn làng đã rèn luyện cho tôi nên người từ thuở đó. Đến năm mười hai tuổi mỗi ngày tôi phải đi bộ năm bảy cây số ra phố quận Hải Lăng để theo học Trung học. Hình ảnh ghi đậm trong tim tôi là ngày tôi dự thi vào trường, cảnh bác Sáu tôi đứng bồi hồi chờ trước cửa trường Nam tiểu học, trưa bụng đói bác đưa cho tôi ổ mì"xíu" mà lần đầu trong đời tôi được ăn, cái hương vị tuyệt vời mãi đi theo tôi cả chiều dài năm tháng, cái mùi cay bùi đó không làm sao tôi quên được. Chiều trời đổ mưa tôi gói mình trong tấm ni-lông màu nước mắm băng qua đường gặp bác, hai mắt của bác nhìn tôi ứa lệ, bác tôi nhẹ nhàng cởi tấm ni-lông rồi lặng lẻ mặc cho tôi chiếc áo mưa hiệu Blair màu khói hương, đó cũng là lần đầu tiên trong đời một đứa trẻ quê được khoác lên mình một chiếc áo mưa tươm tất. Tôi nuốt nước mắt vào lòng mừng vui khôn tả và lặng thinh nắm lấy tay bác đi bộ về chỗ trọ lòng đầy bồi hồi xúc động. Kỳ đó tôi đổ Trung học.
Tôi không thể nào quên những năm tháng đi học xa nhà, những ngày hè oi bức, nhễ nhại mồ hôi trên con đường cái quan rãi nhựa bốc khói, những sớm mai, chiều đông rét lạnh căm căm tôi bó mình trong chiếc áo tơi do tôi chằm từ lá nón, lầm lũi bước với bụng đói lép kẹp.
Để có cơm ăn tôi đi làm Precepteur suốt ba năm học trường Nguyễn Hoàng, với một bà mẹ quê quanh năm ruộng lúa nương khoai thì làm sao kham nổi cho con ăn học xa nhà, nên đôi lúc cũng đành phó thác tôi cho trời cho đất. Những ngày đầu bỡ ngỡ với lớp với trường tôi xoay quanh với nghề gia sư ở nhà sách Tao Đàn, đêm kèm ba đứa nhỏ đang học Tiểu học, cho đến năm Đệ nhị (lớp 11) thì chuyển lên kèm cho một gia đình ở xóm chài, cái xóm chài ven sông Thạch Hãn cứ theo mãi tôi đến bây giờ, những con đò nằm sát bên nhau nơi bến đổ...và rong rêu dập duềnh theo từng đợt sóng lô xô, những bữa cơm có lúc nghèn nghẹn không nuốt nỗi khi trong cơm có lẫn mùi dầu hỏa (dầu lửa).
Chủ nhà tôi dạy kèm vốn chẳng khá giả gì nên tôi cũng chẳng phiền lòng về chuyện ăn uống hay trú ngụ, nữa niên khóa sau tôi phải ghi tên ăn cơm Xã hội (miễn phí) và thuê một cái giường để ngũ và học hàng ngày.
Tôi học ban C nên được xếp học ở dãy nhà dọc phía trái của trường, nơi có cái cổng phụ rất dễ cho những lần chúng tôi cúp cua lang thang ngoài phố. Tôi vốn không có một bạn gái nào để vắt vai cho một mối tình, có lẽ vì nghèo, vì gia cảnh khó khăn…, lúc này đối với tôi đám nữ sinh như đang ở một thế giới xa vời, khó lòng tôi với tới. Cứ mỗi chiều cuối tuần tôi háo hức về lại quê nhà, bên mâm cơm nghèo cùng mẹ tôi với những trái cà, đọt bí, hương vị của đất trời tõa một mùi thơm dìu dịu, hình như để bù lại cho những ngày ở tỉnh lị thiếu đói mẹ tôi lại chạy vạy lo cho từng bát cơm có trứng, có cá.
Ở trường tôi được thầy cô để ý quan tâm đến hoàn cảnh của mình như cô Thanh, thầy Gary Carkin, thầy Diên, thầy Nguyễn Đăng Ngọc. Về việc học hành, hình như chỉ có môn Việt văn và Anh văn là tôi chăm chút còn các môn khác tôi lại lơ đểnh, nhất là môn Vạn vật, vì thế mà năm thi Tú tài tôi bị thiếu điểm của cô Toàn, thật nghiệt ngã.
Hồi này tôi bắt đầu có thơ trên các báo Sài Gòn, Tết đó tôi viết bài thơ buồn:
Nói với lớp học
Dĩ vãng đó xin người đem dấu kín
Kỹ niệm buồn đứa con nhỏ hoang mê
Đến với người bằng tháng ngày đông tím
Bằng hạ buồn bằng thu chết ngất ngư .
Tôi chong mắt nhìn đời mình ở đó
Lớp học buồn khuôn mặt lạ trầm ngâm
Ghế bàn trơ im lìm lên nước gỗ
Buồn lưng đầy theo từng tháng từng năm .
....
Người về đó xem xóm làng tôi gục chết
Bầy trâu nghèo lơ lửng bước trong đêm
Ruộng cằn khô bên từng khoang mạ cháy
Người bỏ đi nhung nhớ cả trăm miền .
Xin dung tha một đời tôi vô phước
Sớm xa người về trong cảnh nát tan ....
Thời gian cứ mãi trôi đi, đi mãi cho đến một ngày tôi cũng bỏ trường mà đi sau những năm tháng sống cực nhọc, gian khó. Có ai biết đến một đứa con Nguyễn Hoàng trong bổng chốc thấy mình cô đơn quá đổi giữa một quê hương đầy súng đạn, xác xơ, không có đường về cho ngày mai, lại những lần ra đứng thơ thẩn bên sông Thạch Hãn, nhìn bên kia ẩn hiện ngôi chùa Sắc Tứ thong thả gióng từng hồi chuông, những hàng cây liêu xiêu, dòng nước lững lờ…
Những tháng ngày khó khăn lại diễn ra với cảnh thiếu thốn: ăn nhờ ở đậu, tôi không có một bộ đồng phục tươm tất, (quần xanh áo trắng) để đi đến trường mà thay vào đó là những bộ đồ cũ xì. Thầy cô hàng ngày chẳng lạ gì tôi, một đứa học trò nghèo khó. Lần tôi nhớ nhất là lần cô giáo Thanh dạy Pháp văn (sinh ngữ phụ) gọi tôi lên trả bài nhưng tôi không biết một cái gì cả, cô bảo tôi ở lại sau giờ học, sau khi tôi trình bày về hoàn cảnh khó khăn nên nhiều khi xao nhãng chuyện học. Cô thông cảm và bảo ban tôi như một người chị với đứa em, đã nhiều lần cô tìm cách giúp đỡ tôi. Thế hệ Nguyễn Hoàng dường như ai cũng biết cô Thanh, những cảm thông của cô đã chắp cánh cho tôi sau này bay lên với cuộc đời vốn không hề bằng phẳng.
Những đứa con xưa của Nguyễn Hoàng có lẻ đã đơm hoa kết trái trên vạn nẻo đường, tiếp nối mãi về một thân tình ấm áp, mãi cầm tay nhau cho dù tuổi đời đã sửa soạn về chiều. May thay vẫn còn lại những trái tim người đầy nhân ái và đậm đà thủy chung tình bạn, tình thầy trò.
(Đoạn viết này xin được gởi đến cô Thanh để nhớ đến một đứa học trò đã từng khốn khó) .
3-
Khi xuôi từ Nam ra, qua khỏi cầu Mĩ-chánh, ngã ba con lộ “Không Vui” là quê làng tôi. Hơn bốn mươi năm trước trường Trung học Hải Lăng nằm sát bên con đường đó đối mặt với huyện lị Hải Lăng với hàng kẻm gai chằng chịt. Năm một ngàn chín trăm sáu mốt, trường được xây trên bãi cát mọc đầy xương rồng lẩn hoa mua, sim dại. hàng dương dập dìu trước gió, trống trường điểm từng hồi. Tuổi thơ bồng bềnh trôi về một ngôi trường bé nhỏ nép mình trong thời buổi chiến tranh loạn lạc.
Tôi trở về đây, chốn xưa đã thành một khu mới, giữa ngã ba đi về khi xưa không tìm đâu ra dấu vết của ngôi trường cũ. Ngày đó thời bé nhỏ, ngày hai buổi đi về cùng bè bạn thầy cô chung vui trường lớp, xẻ chia đau thương mất mát một thời súng đạn, Trong nổi đau chung của Hải Lăng từ cuộc chiến trong đó có ngôi trường mẹ Hải Lăng.
Ngày ấy làm sao nói hết những chiều thu hạ đến xuân đông ở phố nhỏ Diên Sanh lạnh buồn, ở giữa ngã ba đường quốc lộ băng ngang là những mái ngói của một thị trấn đìu hiu. Ở dưới gốc đa già là bến xe nhỏ hằng ngày đi về tỉnh lị, bên cạnh đó là ngôi đình làng trầm lặng với những cây bàng lớn hơn vòng hai người ôm. Những buổi lên lớp mai nắng xiên, chiều cát gió, một tiếng trống, một tiếng còi tàu cũng không làm giảm đi nét cô quạnh cho con phố trầm buồn. Ở nơi đó có những Lộc, Hoa của Mai Đàn, Tục, Tiếp của Trung Đơn đã đi qua và đã nằm xuống, một thế hệ buồn !
Ngôi trường tôi bị san phẳng sau một mùa hè khói lửa và vĩnh viễn bị mất đi ở cái huyện lị nghèo này. Những cánh chim bay không mỏi mãi nhớ về trường xưa, ở đó tôi vẫn nhớ về từng hồi chuông nhà thờ đổ trong những mùa giáng sinh từ nhà thờ cha Minh, tiếng chuông ngân nga tít mãi tận đồi cát bên kia, đã mất đi những bóng hình xưa cũ, còn chăng chỉ còn lại những đám mây trôi bàng bạc mỗi chiều. Cảnh cũ muôn năm đi vào cổ tích của nhớ nhung hoài niệm.
Em một mình bên giòng
sông quê
ngập lòng mùa về tháng chạp
qua rồi tháng năm được mất
tình đi nào có quay về.
Ô Giang đầu bến hoa sim nở
tím mãi tim ai đợi chờ,
thôi lời nguyền buổi đó
mây đã xa, cây đời tương tư.
Sông xao chi mà chẻ hai giòng
võ vàng mấy bờ thương nhớ,
dăm sầu ai đi cách trỡ
xa nhau hỏi em có buồn.
Phai trôi màu chiều
xa vắng
chiều đi nắng tím hoa mua,
suối chao mấy giòng nhịp sóng
còn lại tình trao người về
bên khe quê hoài hiu quạnh.
Một mình em với sông quê
đợi tới khi chiều nắng tắt,
người ơi nào có quay về
em giận ai
mà lòng đau muối xát.
Ngờ tình dặm chiều cay đắng
đợi chờ sông quê ngày nao
chở ai về
dỗ lòng theo sớm mưa chiều nắng.
Bên người xa cả trời trống vắng
nụ hôn xưa nay quá bẽ bàng,
quên trôi theo từng ngày tháng
dặm sầu ai đã theo mang.
Lê Sinh
No comments:
Post a Comment