|
Văn tế thập loại chúng sinh. Ảnh từ hanhtrinhtamlinh.com,
|
Từ ‘Thập giới cô hồn quốc ngữ văn’
đến ‘Văn tế thập loại
chúng sinh’
Lê Quang Thái
Sáng tác Văn tế cô hồn hay Văn tế thập loại chúng sinh thể
hiện lòng hiếu nghĩa đối với tiên nhân, người thân và kể cả đồng bào, nó dựa
vào nguồn cội tri ân sâu thẳm.
1. NGUỒN GỐC
Rằm tháng bảy là tết Trung Nguyên, ngày giải thoát vong hồn,
còn được gọi là ngày xá tội vong nhân. Nói về nguồn gốc của ngày Tết này, Lê
Quý Đôn đã viết:
“Các đạo sĩ có phép tiêu tai giải ách, họ dựa vào thuật số
âm dương ngũ hành, suy tính niên vận của người ta, rồi viết ra như cách thức biểu
sớ: “Tâu lạy thiên tào, xin ngài giải ách”. Thế gọi là dâng sớ. Đến nửa đêm bày
cổ bàn, nem rượu, bánh trái, lễ vật dưới trăng sao mà dâng cúng Thiên Tào Thái
nhất (đại đế), Ngũ kinh, Liệt tú; cũng làm bài trạng như cách dâng sớ, gọi là
làm lễ Tiếu (lập đàn cầu đảo). Lại lấy gỗ làm ấn, khắc chữ nhật nguyệt tinh thần;
rồi hà hơi đóng dấu vào bệnh nhân, cũng có nhiều người khỏi. Đời sau làm trai
đàn là bắt nguồn từ đây”(1).
Để làm rõ vì sao tết Trung Nguyên được gọi là lễ Vu Lan, nhà
bác học tinh thông Phật học Lê Quý Đôn đã viết rõ về nguồn gốc của lễ này như
sau:
“Tết Trung Nguyên, người ta để đồ mã và giấy ngũ sắc vào cái
giường ba chân, như cái đèn nồi, gọi là Vu Lan bồn treo áo giấy, rồi lấy đóm đốt”.
Thích Thị Yên Lãm: Tiếng Phạn nói “Vu Lan bồn” như tiếng Hán
nói
“Cửu đảo huyền” (cứu người bị treo ngược)”(2).
Theo Vu Lan Kinh: Đại đệ tử của Đức Phật là Mục Kiền Liên vì
bất nhẫn khi thấy mẹ bị đọa vào đường ngục quỷ, chịu khổ, nên Ngài thưa hỏi Phật
cách giải cứu. Phật dạy vào ngày Rằm tháng 7 là ngày chúng Tăng tự tứ hãy dùng
thức ăn ngon quý, ngũ quả cúng dường Phật tăng trong 10 phương thì mẹ ông sẽ được
thoát li khổ nạn. “Vu Lan” nghĩa là “đảo huyền”.
Nhà thơ Lục Du (1125 – 1210) cho biết thời bấy giờ đã có tục
làm cổ chay cúng gia tiên. Mốc thời điểm này tương ứng trong khoảng cuối đời
vua Lý Nhân Tông đến đời vua Trần Thái Tông của nước Đại Việt.
Đây là một tập tục lâu đời ở nước ngoài, còn ở nước ta thì
sao? Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa thu, tháng 7, năm Giáp Dần,
niên hiệu Thiệu Bình thứ 1 (1434); Ngày 15, mở hội Vu Lan, tha tù tội nhẹ 50
người, cho ai sử dụng kinh 220 quan tiền”(3).
Như thế thì ít nhất lễ Vu Lan đã trở thành quốc lễ của nước
ta khoảng 580 năm. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên (1908 – 1975), tác giả sách
Văn minh Việt Nam bằng Pháp ngữ, xuất bản năm 1944; sách có đoạn viết rõ ràng
hơn: “Hội lễ dân gian của Đạo Phật là ngày rằm tháng Bảy âm lịch. Đây là một kiểu
ngày lễ của những người chết, trong ngày đó, ở địa phủ, do lòng từ bi của chư
Phật, một cuộc xá tội lớn, được thực hiện, các ngục được mở và nhiều vong có tội
tỏa đi khắp thế gian. Các gia đình đi chùa cúng và tụng Kinh để giải thoát cho
hồn của thân nhân mình (4).
Nguyễn Văn Huyên phác thảo lại cảnh tượng Hội lễ dân gian của
Phật giáo băng cách miêu tả như là “hiện tượng ngày Rằm tháng Bảy âm lịch”, chớ
không đi xa hơn là truy nguyên nguồn gốc để giải thích câu ca “Tháng Bảy ngày Rằm
xá tội vong nhân” được lưu truyền trong dân gian vào những năm cuối của thập kỷ
30 thuộc thế kỷ trước.
Kết hợp giữa hai yếu tố truyền thông mang tính cách kinh điển
Phật giáo với hiện tượng lễ hội trong xã hội Việt Nam năm 1934; giữa lúc phong
trào chấn hưng Phật giáo đang chủ xướng tìm về cái uyên nguyên, tinh anh của
Văn hóa Phật giáo đang được cổ xúy canh tân.
Theo dòng chảy lịch sử – văn học nước nhà, ngày rằm xá tội
vong nhân đã trở thành quốc lễ Vu Lan, nay đã trở thành VU LAN THẮNG HỘI diễn
ra từ làng quê, chùa quê cho đến thành đô khắp nước, thể hiện lòng hiếu thảo đối
với tiên nhân và người thân đã mất.
2. THẬP GIỚI CÔ HỒN QUỐC NGỮ VĂN
Xem chừng giữa Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十誡菰魂國語文)với
Văn tế thập loại chúng sinh (文祭十類眾生) có nhiều nét tương đồng và khác biệt nhau tuy rằng
cả hai danh phẩm này đều bắt nguồn từ Du gia khoa nghi.
Theo Nguyễn Lang, (tác giả bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận),
thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một áng Văn Nôm cổ gồm có một đoạn mở đầu
và mười đoạn nói về mười giới cô hồn: 1- thiền tăng; 2- đạo sĩ; 3- quan liêu;
4- nho sĩ; 5- thiên văn địa lý; 6- lương y; 7- tướng quân; 8- hoa nương; 9-
thương cô; 10- đãng tử. (5)
Học giả Trần Văn Giáp cho biết 2 điều đáng lưu ý qua sách
Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I tại 2 trang 218 và 219 như sau:
Chi tiết 1: “Hiện nay thư viện khoa học Trung ương còn lưu
tàng được một số sách” gọi là Thiên Nam dư hạ tập (ký hiệu A.334), gồm nhiều
quyển, đóng 10 tập, từ tập sớ IX chép trên giấy hẹp (khổ 10 x 28) tờ 2 trang,
trang 8 dòng, dòng 22 chữ, chữ viết đá thảo có vẻ xưa, còn thì toàn là sách mới
chép lại bằng giấy kinh (khổ 22 x 31) tờ 2 trang, trang 9 dòng, dòng 22 chữ viết
chân phương, không ghi rõ chép lại từ đâu và nguyên bản mượn của người nào” (6).
Chi tiết 2: “Tập VI, 122 tờ…, tờ 46 – 55: Thập giới cô hồn
quốc ngữ văn (Lê triều Thánh Tông ngự soạn) (十誡菰魂國語文梨朝圣涼御撰) (?), không thêm Nguyễn
Trực phụng bình như các bài khác.
Mười điều dạy bảo các cô hồn ấy như sau: 1- Thứ nhất thiên
tăng rằng; 2- Thứ hai giới đạo sĩ rằng; 3- Thứ ba giới quan liêu rằng; 4- Thứ
tư giới nho sĩ rằng; 5- Thứ năm giới thiên văn địa lý rằng; 6- Thứ sáu giới
lương y rằng; 7- Thứ bảy giới tướng quân rằng; 8- Giới hoa nương rằng; 9- Thứ
chín giới thương cổ rằng; 10- Thử mười giới đãng tử…”. (7)
Trần Văn Giáp không đồng tình Thập giới cô hồn quốc ngữ văn
do chính vua Lê Thánh Tông viết. Nhà vua chỉ đề thơ lên bản thảo bài tựa sách
Thiên Nam dư hạ tập (trong đó có áng văn Thập giới cô hồn quốc ngữ văn) đã soạn
sẵn. Nguyên văn bài thơ tựa ấy bằng chữ Hán mà sách Đại Việt sử ký toàn thư đã
phiên âm:
Hỏa thử thiên đoan bố;
Băng tâm ngũ sắc ty,
Cánh cầu vô địch thủ
Tài tác cổn long y. (8)
Trần Văn Giáp đã dịch:
Ngàn mảnh vải bông con chuột lửa,
Năm màu tơ nõn cái tằm băng
Lại tìm thợ khéo tay vô địch
May bộ áo rồng chi đẹp bằng.
Quan điểm của tác giả bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận phản
biện về nhận thức của Trần Văn Giáp rất rõ ràng:
“Không chắc quan điểm của Trần Văn Giáp là đúng. Trong Thiên
Nam dư hạ tập ta thấy có chép thơ văn của hội Tao Đàn, trong đó có Quỳnh Uyển Cửu
Ca, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một tác phẩm Nôm quan trọng, sao lại không
thể đưa vào Thiên Nam dư hạ tập, nhất là khi tác phẩm này do Tao Đàn Nguyên
Soái sáng tác?” (9)
Mở đầu áng văn Nôm cổ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn có những
câu viết:
“… Cổ tới nhẫn kim; sinh thời có hóa. Ấy vậy, hồn là thần,
phách là quỷ, no nên bụt, đói nên ma… Có quân tử, có tiểu nhân, chẳng cùng một
đấng; trong phong quang, trong nghệ nghiệp, tới trót 10 loài. Ai ai cải lấy
lòng phàm; khăn khắn cùng thời nghe giới.”
– Về giới thiền tăng, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết như
lời răn:
“Chịu giáo Thích Già, thì lòng giữ giới…”. Có bài kệ than rằng,
rõ nét lời than ở 2 câu kết:
Nói những thiên đường cùng địa ngục
Pháp sao chẳng độ được mình ta" (10)
– Về giới nho sĩ nhận những lời răn: Hỡi ơi! Sống bởi chưng
bàn bạc sự người; thác cho phải phiêu lưu đòi chốn. Vài bài kệ có lời than
trách; tiêu biểu là 2 câu kết:
Bút mực chẳng quên bề chi lũ
Lộc cao sao khéo lỡ người ta. (11)
Như vậy chữ giới (誡r) trong Thập giới cô hồn quốc ngữ
văn khác nghĩa hẳn với chữ “loại” trong Văn tế thập loại chúng sinh, về thể tài
văn học thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn được viết theo lối tản văn nghiêng hẳn
về chính luận. Thơ kệ chỉ thâu tóm lời răn để minh chứng, minh họa mà khai thị
cho người được nghe, kể cả cô hồn được nghe như nghe kinh vậy.
3. VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Loại (類) có nghĩa là loài giống như tứ tự thành ngữ “phân môn biệt
loại”. Mười loài khác nghĩa với mười giới. Chúng (眾) có nghĩa là đông, nhiều.
眾生
là “các loài có sống, có chết, có cảm giác”. Chúng sinh ở trong tác phẩm Văn tế
thập loại chúng sinh có nghĩa là “người”, “mọi người”. Chữ (十): thập
là pháp số, vay mượn để chỉ số nhiều. Bổ sung cho việc chỉ “người”, trong dân
gian có từ “kẻ”. “Kẻ” và “người” đồng nghĩa, đồng thuyền, đồng hội.
Về thể tài văn học của áng thơ nôm bất hủ đã trở thành kinh
với 4 tên gọi: 1- Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh; 2- Chiều Hồn Văn; 3- Thỉnh Âm Hồn
Văn; 4- Ca Tế Chúng Sinh.
Qua tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du (1766 – 1820) đã viết
hai câu 2967 – 2968 như để giải thích về ý nghĩa của việc Chiêu hồn:
Chiêu hồn thiết vị lễ thường
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Đừng xem thường, danh từ “lễ thường” có nghĩa là quan trọng
thứ yếu sau các lễ tế Giao, lễ tế Xã Tắc… Rút ruột từ cổ thư Lê Quý Đôn tìm ra
chữ gọi của “lễ thường” có tên gọi là “tục tiết”.
Thỉnh âm hồn văn được sáng tác theo thể ngâm khúc gồm hơn 45
khổ, gọi là hơn bởi lẽ bài thỉnh cô hồn này được kết thúc bằng hai câu song thất
“Phật hữu tình”:
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không…
Sau cùng, một nét đặc sắc khác của Văn tế thập loại chúng
sinh được gọi là sám hoặc sám văn trong cúng tế, chiêu hồn, gọi hồn từng loại
chúng sinh.
Trong suốt toàn áng văn gồm 182 câu thơ song thất lục bát được
dựng theo thể ngâm một cách truyền cảm giao hưởng giữa hai cõi âm – dương, thế
mà chỉ có lời gợi đến cô hồn, Nguyễn Du chỉ nhắc 10 loại liên quan chỉ có một lần
nhắc chung tại câu 11: “Thương thay thập loại chúng sinh”.
Pháp số 10 hàm chỉ số nhiều, những trên 10 trở lên. Chúng
sinh ám chỉ mọi người – Nguyễn Du đã dùng các danh từ “người” hoặc “kẻ” đến 19
lần qua những đến 15 lần “triệu hồn, được trích chọn từ câu 21 cho đến câu 136.
Chọn đếm ra thì có tới 30 câu/182 câu”.
Không thể kể hết, tiêu biểu nhắc đến một số câu thơ minh họa:
– Câu 21, 22:
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chỉ những lăm cất gánh non sông.
– Câu 45, 46:
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son sống thác ở tay.
– Câu 93, 94:
Cũng có kẻ vào sông ra biển.
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
– Câu 121, 122:
Cũng có kẻ mắc đoàn tù rạc
Gởi mình vào chiếu rách một manh.
– Câu 129, 130:
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người xẩy cỗi xa cây.
– Câu 131, 132:
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành
– Câu 135, 136:
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khôn thương.
Nói 9 phương trời, 10 phương Phật thì đích thị là chuẩn mực.
Viết thập loại thì có thể hiểu theo cách ước lệ. Phải hiểu là trên 10 như 12,
14… cũng đúng theo tư duy tổng quan của người Việt về số lớn. Nói 100 họ (bách
tính) nhưng thực tế kê ra lại hơn 100 dòng tộc. Thói tục trong bán buôn mua 10
lại chầu thêm 2, 3 hoặc 4 là bằng chứng.
Cái khôn khéo của tác giả Nguyễn Du là đã dùng 10 loài chúng
sanh lan tỏa qua phần triệu hồn (gọi hồn). Với “Cô hồn các đẳng”, dân gian thường
nói thì họ chết đủ thứ nghiệp theo lỗi “sinh nghề tử nghiệp”. Đó là chưa kể chết
non, chết già. Trên 10 loài chúng sinh như sĩ, nông, công, thương, binh, còn phải
kể các loại chúng sinh khác như ngư, tiều, canh, mục hoặc cầm, kỳ, thi, họa chẳng
hạn.
Đó là nét khác biệt và tiến bộ của Nguyễn Du so với các tác
giả thuộc triều thần đời vua Lê Thánh Tông đã biên soạn Văn tế thập giới cô hồn
quốc ngữ văn.
Trong toàn bài, tuyệt nhiên không tìm thấy câu nào nhắc đến
giới tăng lữ như Thập giới cô hồn quốc ngữ văn do triều thần đời Lê Thánh Tông
biên soạn mà chính nhà vua đề lời tựa của bộ sách Thiên Nam dư hạ tập ra đời
vào thời Hồng Đức thứ 14, tức năm Quý Mão, 1483. Đời sau và đời nay đã phản biện
tranh cãi: Ai là tác giả? Người bảo của Thân Nhân Trung, kẻ nói của vua Lê
Thánh Tông. Và hiện nay chưa tìm ra lời giải mã đủ sức thuyết phục. Thiết nghĩ
đó là khuyết nghi của lịch sử văn học để lại cho người đời sau. Chưa biết ai sẽ
vén bức màn những bí ẩn này để làm sáng rõ vừa Quốc sử lẫn Phật sử nước nhà.
Riêng, Văn tế thập loại chúng sinh thì có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng. Nguyễn Du đã từng nhen nhóm nguồn cơn: “Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh độ/
Phóng hào quang cứu khổ độ u”.
Năm 1973, giáo sư Thạch Trung Giả cho ra mắt bạn đọc bộ sách
Văn học phân tích toàn thư đã viết:
“… Kinh Chiêu Hồn tả thế giới của người chết, nhưng nó chỉ
là phần phản ánh thế giới của người sống, đó là hình ảnh thời Lê Mạt, mà cũng
vì thế nên mặc dầu thê thảm ghê rợn nhưng Kinh Chiêu Hồn vẫn không quái đản như
những tác phẩm Edgar Po, nó còn NHÂN LOẠI TÍNH (người viết tôn hoa lên) vì nó tả
hình ảnh nhân loại qua những bóng ma, nó cảm lòng ta chứ nó không muốn cho thần
kinh thác loạn” (12).
Tự thân Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh tự nhiên
đã đẩy đưa Tố Như Nguyễn Du lên văn đàn thế giới và trở thành Đại thi hào dân tộc
kể từ năm 1965.
Vinh danh lớn không những dành cho người Việt Nam mà còn cho
hàng nho sĩ không thấy trở ngại gì khi mình đồng thời cũng là Phật tử nữa. Đó
là nội dung lời bình về Nguyễn Du của tác giả sách Việt Nam văn hóa sử luận (13).
Thiết nghĩ, đó là “cái dũng” của người cầm bút tung lên hay
nói cách khác là khí tiết của nhà nho Nguyễn Du, Đại thi hào của thế giới.
Lê Quang Thái
(Theo Tạp chí Sông Hương, 05/9/2017)
——————-
1. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và
chú giải, Nxb. Miền Nam, Sài Gòn, 1973,
tr.187; 195.
2. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và
chú giải, Nxb: Miền Nam, Sài Gòn, 1973,
tr. 187; 195. Tiếng Phạn: Ullambana = Vu Lan bồn hội.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Cao Huy Bin và Đào Duy
Anh dịch, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội,
2004, tr. 129.
4. Văn minh Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Nxb. Hội Nhà văn, Hà
Nội, 2005, tr.361.
5. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà
Nội, 2000, tr.493.
6. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Trần Văn Giáp, Nxb. Văn
hóa, Hà Nội, 1984, tr.218.
7. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Trần Văn Giáp, Sđd,
tr.219.
8. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.386.
9. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.492
10. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.494
11. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.495.
12. Văn học phân tích toàn thư, Thạch Trung Giả, Nxb. Lá Bối,
Sài Gòn, 1973, tr.33.
13. Xem Việt Nam văn hóa sử luận, Nguyên Long , Sđd,
tr.675-676.