Tác giả Nguyễn Đức Tùng. |
ĐỌC MỘT BÀI THƠ NHƯ THẾ NÀO:
Sự Hấp Dẫn Của
Chữ
Nguyễn Đức Tùng
1. Ảnh hưởng của
phương pháp siêu thực:
Chủ nghĩa siêu
thực xuất hiện từ Pháp. Người đầu tiên đặt tên cho nó vào năm 1917 là Guillaume
Apollinaire, nhưng người cổ vũ đến cùng là André Breton. Các nhà siêu thực nhấn
mạnh đến phương pháp sáng tạo tự động (automatic writing), liên tưởng tự do
(free association) và các giấc mơ. Rõ ràng là họ chịu ảnh hưởng của phân tâm học.
Breton kể một
giai thoại rằng có một thi sĩ nọ, sống trong một ngôi biệt thự vùng Camaret, mỗi
khi đi ngủ, ông lại cho treo trước cửa nhà mình tấm bảng đề: “nhà thơ đang làm
việc”.
Thật đúng là:
Mía cứ ngọt âm
thầm trong bóng tối
(Mai Văn Phấn)
Phương pháp siêu
thực cho phép các nhà thơ đi xa trong liên tưởng, tạo ra các hình ảnh không có
liên hệ thuần lý (disjunctive images). Các hình ảnh và các ý tưởng trong thơ có
mối liên hệ khó giải thích, có thể gọi là vô thức. Cần chú ý rằng mặc dù phong
trào siêu thực đã thúc đẩy những tiến bộ đáng kể trong văn chương, những người
lập ra hay khai triển nó như Breton, Aragon, có lẽ với một ngoại lệ duy nhất là
Octavio Paz - lâu về sau, đều có tính quá khích, phá hủy, thậm chí phá hoại, đồng
bóng. Hầu hết các nhà thơ Việt Nam đều có sử dụng, không nhiều thì ít, hình ảnh
siêu thực. Từ Bùi Giáng, Trần Dần, Dương Tường, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ trước
đây…đến Thường Quán, Đỗ Kh., Lê Thị Huệ, Nguyễn Quang Thiều, Bùi Chát, Lý Đợi,
Nguyễn Bình Phương, Lưu Hy Lạc, Nguyễn Đăng Thường... hiện nay chẳng hạn đều có
khuynh hướng vô thức. Trong âm nhạc, có một người chịu ảnh hưởng sâu đậm của
phương pháp siêu thực khi viết lời, nhưng điều này hình như chưa được ai nói tới,
đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Nhờ phương pháp
siêu thực, cách sử dụng các ẩn dụ trở nên giàu có, gần như phóng túng, bất tận.
Nhưng bao giờ
cũng thế, cái dễ là cái bẫy chết người.
Ngày nay, chủ
nghĩa siêu thực không còn tồn tại như một phong trào văn học, nhưng vẫn tiếp tục
sức mạnh của nó như một phương pháp sáng tác, mà tôi cho rằng sẽ còn lâu dài.
Người đại diện xứng đáng đầu tiên của nó ở Việt Nam là Thanh Tâm Tuyền vào những
năm 1960 ở miền Nam, mặc dù tôi tin rằng lúc đó ông còn khá xa lạ với phân tâm
học. Do áp lực của thời cuộc, chiến tranh trở nên khốc liệt, du kích đánh phá
các thành thị, lính Mỹ đổ bộ vào miền Nam, cuộc sống gấp rút, người đọc thơ
chưa có thời gian để trang bị cho mình kiến thức để sẵn sàng tiếp nhận thơ
Thanh Tâm Tuyền, các nhà phê bình ở miền Nam lúc đó cũng không có đủ sự chuẩn bị
về lý luận để đánh giá nó. Các nhà phê bình miền Bắc cùng thời dĩ nhiên là
không hay biết hay là không được phép tiếp cận phong trào này, cũng như với các
vận động văn học từ phương Tây. Gần bốn mươi năm sau, chủ nghĩa siêu thực trở lại
Việt Nam, lần này đơn giản như một phương pháp. Nó chinh phục một số không ít
các nhà thơ trẻ trong nước cũng như hải ngoại, và trong khi hào phóng khơi nguồn
ở họ những dòng chảy năng lượng sáng tạo dồi dào, không biết vung phí vào đâu,
thì lại dẫn họ vào các khu rừng rậm đầy gai của thơ ca, bỏ mặc họ ở đó, không
có một viên sỏi nào, và nhiều người viết hiện nay mãi mãi không tìm thấy lối
ra.
2. Ngôn ngữ và
vài dòng tự sự về việc chọn chữ:
Trên Talawas, độc
giả Quỳnh Thi hỏi như sau:
“Anh lật trái lá
sen hồ
Thấy đề mấy chữ
Lên chùa
Vậy là anh lên
chùa
Thăm Phật
(NĐT)
Theo tôi hiểu,
người Phật tử lên chùa là để lễ Phật hay là để cúng Phật. Không ai nói là để
thăm Phật.”
Người đọc thơ đọc
như Quỳnh Thi là rất kỹ, tinh ý. Đúng là Phật tử lên chùa là để lễ Phật hay là
để cúng Phật. Vấn đề là tôi không biết chắc Chế Lan Viên có phải là Phật tử hay
không? Nhưng quan tâm của chúng ta không dừng ở đó. Bất cứ nhà thơ nào khi viết
cũng dụng công rất kỹ về từ ngữ. Tôi cũng thế. Nhiều người tìm cách định nghĩa
thơ, nhưng không ai định nghĩa được trọn vẹn. Dù định nghĩa như thế nào thì có
một điều chắc chắn là thơ gồm có…những chữ. Các loại thơ không có chữ là những
ngoại lệ mà chúng ta chưa bàn ở đây.
Khi viết câu
trên tôi đã chọn một số chữ sau đây, các nhà văn còn gọi là “thao tác chữ”: lễ
Phật, cúng Phật, lạy Phật, viếng Phật, tìm Phật, hỏi Phật, thỉnh Phật. Thậm chí
còn nghĩ đến những chữ rất táo bạo nhưng… không dám viết xuống. Không dám đây
là không dám vô lễ với Chế Lan Viên, chứ không phải với Phật (Mô Phật!).
Cuối cùng, tôi
đã chọn chữ nào?
Robert Frost,
nhà thơ hàng đầu của Mỹ, có một lời khuyên dành cho những người làm thơ và cả
những người đọc thơ, đó là đọc to các câu thơ để xem chúng vang lên như thế
nào?
Tôi cũng tin là
tai của chúng ta sẽ bắt được những chữ mà mắt của chúng ta bỏ sót.
Đọc như thế vài
lần thì tôi chọn chữ thăm.
Đối với nhiều
nhà thơ, âm nhạc của bài thơ là quan trọng nhất. Nhưng không phải bao giờ cũng
vậy. Một số thể loại thơ không đặt nặng nhạc tính nhiều như một số thể loại
khác. Thơ Đường rất mạnh về nhạc tính nhưng thơ Haiku Nhật Bản coi trọng hình ảnh
hơn, mặc dù không phải là họ không chú ý vần điệu. Thơ Haiku vốn có vần điệu chặt
chẽ. Thơ hiện đại và hậu hiện đại ngày càng xa rời nhạc tính, và đây có lẽ là
điều đáng tiếc chăng?
Thật ra, trong
bài thơ Chùa, yếu tố quan trọng nhất để người viết quyết định chọn chữ “thăm”
không phải là nhạc điệu, mà là ý nghĩa của chữ. Chữ “thăm” dĩ nhiên rất khác với
chữ “lễ”, chữ “cúng”. Tôi chọn chữ này để mô tả tính cách của Chế Lan Viên là
người mà tôi đề tặng. Đúng ra không phải là tính cách mà là thái độ của ông trước
một số vấn đề. Đó là một thái độ, theo tôi, vừa sang cả siêu hình vừa lưu manh
phi trí thức đối với các vấn đề siêu hình và tôn giáo. Cho đến cuối đời Chế Lan
Viên vẫn nằng nặc đẩy xa các câu hỏi siêu hình nhưng tôi nghĩ trong các nhà thơ
hiện thực xã hội chủ nghĩa chính thống, chính ông mới là người bị nó ám ảnh nhiều
nhất, như trong ví dụ lát nữa đây.
Chúng ta bàn tiếp
chuyện chọn chữ. Các nhà thơ ngày càng có khuynh hướng sử dụng ngôn ngữ của đời
sống hàng ngày, vì vậy có một hiện tượng hiểu lầm đáng tiếc. Có nhiều thi sĩ
ngày nay cho việc chọn chữ khi làm thơ cũng hệt như việc chọn chữ khi viết văn
xuôi, “cả hai đều như rứa”. Vì vậy họ làm cho các độc giả yêu thơ rất đáng yêu
của chúng ta vô cùng bối rối, nhiều khi như kẻ lạc đường. Không trách họ bỏ các
nhà thơ, cầm tập thơ lên rồi bỏ xuống, không mua, là phải. Bạn có thể tìm thấy
vô số những thí dụ như vậy trên các trang web và báo chí, nên tôi thấy tạm thời
không cần phải trích ra.
Tôi sẽ trích thơ
dở trong các bài sau.
Nhưng hãy xem
ngôn ngữ của một số nhà thơ khác. Từ các bài thơ tôi đang có sẵn trên bàn, lấy
tiện tay, nhưng dĩ nhiên không chỉ giới hạn trong số họ.
Có hơi hướm của
văn xuôi:
Một ngày loáng
thoáng một ngày qua
(Nguyễn Bắc
Sơn).
Chạm nhẹ vào văn
xuôi:
Đom đóm chữ tụ về
Từ các bãi tha
ma văn học
(Đỗ Quyên)
Rõ hơn nữa:
Nghệ thuật cũng
vậy thôi. Cao siêu thường bị chối.
(Nguyễn Trọng Tạo)
Giễu nhại và rất
thực:
Ở đâu có mùi thối
là ở đó có hoa cứt lợn
Bởi vì hoa cứt lợn
là một loại hoa rất bẩn
(Lý Đợi)
Nghi thức và rất…
sạch:
Em tắm rất kỹ và
rửa sạch tay mỗi khi ngồi trước giấy
(Vi Thùy Linh)
Dung dị:
Mẹ tôi chưa từng
ăn một cọng bún
Một tô phở một
tô bánh canh
Một hột vịt lộn
Một miếng cá
chiên
(Du Tử Lê)
Còn Chế Lan Viên
thì sao?
Bây giờ mà anh cứ
lai nhai lải nhải
Tồn tại hay
không tồn tại
Thì ai nghe anh?
Rõ ra là lối nói
có chất ngôn ngữ đường phố. Thoải mái, thêm mấy chữ thì, mà…buông thả.
Có vẻ như ai
cũng viết được.
Không phải thế.
Chỉ có cỡ Chế Lan Viên mới viết thế. Hay Minh Đức Hoài Trinh, lát nữa.
Chúng ta cùng đọc
lại xem: các chữ đi với nhau rất khéo- bây, lai, nhai, lải, nhải, tại, hay, tại,
ai. Đó là các vần trùng điệp liên tiếp mô tả một anh chàng đúng là lai nhai, lải
nhải. Tôi chắc chắn rằng ông đã chọn chữ rất kỹ.
Kỹ thuật lập lại
sẽ rất đắt nếu bạn muốn nhấn mạnh:
Người đã quên ta
rồi
Quên ta rồi hẳn
chứ
(Minh Đức Hoài
Trinh)
Càng nhấn mạnh,
càng phân vân. Đúng không?
Khi phỏng vấn loạt
bài Thơ Đến Từ Đâu, tôi phải đọc nhiều thơ và trường ca của các nhà thơ đi từ
miền Bắc, vốn xa lạ với nhiều người đọc hải ngoại. Ngoài Bắc gọi đó là các nhà
thơ thế hệ “chống Mỹ” (Xin dùng chữ này với nghĩa quy ước, vì ngày nay hầu hết
họ đã thôi chống Mỹ, vì thấy chơi với Mỹ, như các nhà thơ miền Nam trước đây,
vui hơn). Tôi nhận ra rằng các nhà thơ này (Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Duy,
Hoàng Hưng, Trần Nhuận Minh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Trọng Tạo …
) có thể so sánh với các nhà thơ miền Nam cùng thời hay trước họ một thế hệ thơ
(Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Quách Thoại, Nguyễn Đức Sơn, Phạm Thiên Thư, Du Tử
Lê, Viên Linh, Nguyễn Tất Nhiên, Luân Hoán…) xét riêng về nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, và chỉ riêng về mặt này mà thôi, trong những thời điểm
chiếu sáng nhất của họ, và chỉ trong những thời điểm đó mà thôi, đạt đến mức
tài hoa điêu luyện, mà các nhà thơ trẻ hiện nay, muốn chạy đuổi theo họ cũng
còn hơi bị lâu.
Vậy tôi đề cập đến
họ trước.
Thí dụ, Hữu Thỉnh.
Nhà thơ này, điều hành Hội nhà văn thì dở tệ, bị một số hội viên chê là bảo thủ
giáo điều, nhưng làm thơ không tệ chút nào. Trong một trường ca, tôi quên mất
tên, mở đầu, Hữu Thỉnh viết:
Đường xuống bến
có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã
bạc mái đầu
Quê tôi bên dòng
nước trong xanh (nhưng nhiều cá!), mỗi ngày vào mùa hạ bọn học sinh đều xuống bến
sông tắm rửa. Đó là nói trước chiến tranh, trước khi quân đội miền Bắc tiến
vào, theo chân… nhà thơ Nguyễn Thụy Kha. Trước chùa sư nữ Long An gần bến đò Thạch
Hãn có một tam cấp dẫn xuống nước. Tôi đã từng đếm đúng mười ba bậc. Vì vậy tôi
tự ý sửa lại như sau:
Đường xuống bến
có mười ba bậc
Nhưng đọc lại,
tôi thấy nó… kỳ kỳ. Tức là không hay. Ba chữ b đi trong một câu là quá nhiều.
Tôi thử các phép khác: mười một, mười hai, mười bốn, mười lăm, mười sáu, mười bảy,
mười tám, mười chín. Đọc đi đọc lại chỉ có mười sáu là hay nhất. Tôi không biết
quê ngoài Bắc của nhà thơ Hữu Thỉnh có thật là có bến sông mười sáu bậc hay
không? Nếu cử người về điều tra thì chúng ta có thể biết được sự thật, nhưng
các nhà phê bình không ai dại dột làm điều đó. Tại sao thế?
Vì sự thật văn
chương không phải là sự thật thông thường. Nếu là văn chương đích thực, nó phải
cao hơn. Và đúng hơn. Và kiểu khác.Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một bài viết
khác.
Tôi xin kể tiếp.
Trong các chữ còn lại, tôi thấy chữ mười tám là khá hơn cả:
Đường xuống bến
có mười tám bậc
Mười tám là
thanh xuân. Mười sáu cũng thanh xuân. Nhưng con gái ngày xưa mười tám thì có…
hơi già.
Nhưng, khoan đã
anh, sao lại con gái?
Vì, mẹ tôi.
Vậy mười sáu đẹp
hơn. Về âm, nghe kỹ thấy mười sáu đi với nhiều thứ. Này đây: chữ sáu bậc phát
âm dễ hơn chữ tám bậc hay bốn bậc. Cũng như mười ba, chữ bốn bậc, bảy bậc có
quá nhiều vần bờ, trong khi chữ sáu lại vần với âm cuối của câu sau (bạc mái đầu).
Bạn thử phát âm xem.
Tất nhiên điều
này chỉ đúng cho câu thơ nói trên, vì sự lập lại các âm tương tự (repetition) vốn
là một thủ pháp quen thuộc của các nhà thơ bậc thầy.
It bleeds the
black blood from the blueberries
(Warren)
Tôi có đang vượt
qua lãnh vực của ngôn ngữ học không?
Nhưng mười sáu
thanh xuân mà đi với bạc mái đầu thì đối xứng lắm.
Trăng mười sáu
tuổi, em mười sáu
Áo lụa phơi buồn
sân gió xưa
(Trần Dạ Từ)
Tôi không cần phải
bình nữa.
Đọc lên thơm cả
không gian.
Nguyễn Đức Tùng
(Revised, 2012.
Còn tiếp).
*****
Nguồn: Facebook Tung Nguyen.
No comments:
Post a Comment