Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, August 30, 2010

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - THƠ


TRANG THƠ

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG


Dù năm dù tháng


Anh hái cành phù dung trắng

Cho em niềm vui cầm tay

Màu hoa như màu ánh nắng

Buổi chiều chợt tím không hay

Nhìn hoa bâng khuâng anh nói

Mới thôi mà đã một ngày.

Ruộng cấy ta mong cơn mưa

Ruộng gặt ta mong ngọn nắng

Chăm lo cánh đồng tình yêu

Anh đếm từng vầng trăng sáng

Thiết tha anh nói cùng trăng

Mới thôi đã tròn một tháng.

Mùa xuân lên đồi cỏ thơm

Mùa hạ nhìn trời mây khói

Mây tím chân cầu tím núi

Đông xa ngày trắng mưa dầm

Nhìn trời ngẩn ngơ anh nói

Mới thôi mà đã một năm.

Sẽ đến một ngày trắng tóc

Nhưng lòng anh vẫn không nguôi

Thời gian sao mà xuẩn ngốc

Mới thôi đã một đời người.

Dù năm dù tháng em ơi

Tim anh chỉ đập một đời

Nhưng trái tim mang vĩnh cửu

Trong từng giọt máu đỏ tươi.



Về chơi với cỏ


Thưa rằng người đã quên tôi

Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may

Một đường hang một dấu giày

Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng

Cảm ơn người trái đào tiên

Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai

Cỏ gai hoa thắm mặt người

Trinh nữ ơi trinh nữ ơi - tôi buồn

Thôi người ở lại soi gương

Tôi đi về phía con đường cỏ lau

Nợ người một khối u sầu

Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi

Mai kia rồi cũng xa người

Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa

Có nàng xõa tóc tiên nga

Quỳ hôn cát bụi, khóc òa trong mưa.



Gửi cho người


Thôi xem em là bông hoa

Một ngày qua một ngày qua một ngày

Thôi xem anh là đám mây

Một đường bay một đường bay một đời

Tài hoa cũng chuyện đùa chơi

Làm sao thưa hết một lời yêu thương

Anh đi tìm khắp thiên đường

Chỉ còn một đoá vô thường gởi em

Gửi em một nét sông mềm

Con đò áo trắng đã chìm trong mưa,

Rằng sông buồn tự thuở xưa

Vầng trăng mộng mị bây giờ là anh.



Nhớ một người


Có đôi khi tôi ghé thăm vườn cũ

Hỏi người đi dạo ấy có quay về

Cỏ bảo rằng nàng về thăm một độ

Đốt khói trầm nghi ngút lại bay đi

Tôi bồi hồi hỏi sang cây cổ thụ

Đường xưa còn vàng nắng áo mơ phai?

Nắng bảo rằng nàng nhớ mùa thu cũ

Tận bên trời vẫn ngóng gió heo may.

Có một lần qua sông tôi hỏi gió

Rằng tháng năm như nước chảy qua cầu

Gió mách rằng nàng chờ người bạn cũ

Dẫu thời gian như nước chảy về đâu

Có nhiều ngày tôi nhớ em tha thiết

Nhớ bồn chồn như ngọn lửa trong tim

Đời lãng tử có một lần ly biệt

Để yêu nhau, để quay quắt đi tìm

Có nhiều đêm tôi trở về gặp tôi,

Người là ai? Là đóm lửa ven đời

Ôi đóm lửa vẫn từng đêm hiu hắt

Nhớ một người. Và mãi mãi không nguôi



Địa chỉ buồn


Nhà tôi ở phố Đạm Tiên

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu

Có mùi hương cỏ đêm sâu

Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm

Tôi về ngủ dưới vầng trăng

Có em từ chỗ vĩnh hằng nhìn tôi

Tình xa, xa mãi trong đời

Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay

Tôi còn ngọn nến hao gầy

Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh

Tôi xin em chút lòng thành

Cài lên một phiến u tình làm hoa

Những chiều Bến Ngự giăng mưa

Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi

Tôi ra mở cửa đón người

Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang

Nhà tôi ở phố Đạm Tiên

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu

Cây sầu đông, cây sầu đau

Thương tôi cây cũng nở màu hoa râm.

Huế 1989



DẠ KHÚC


Có một buổi chiều nào như chiều xưa

Anh về trên cát nóng

Đường dài vành môi khát bỏng

Em đến dịu dàng như một cơn mưa.

Có một buổi chiều nào như chiều qua

Lòng tràn đầy thương mến

Mang cả xuân thì em đến

Thắm nồng như một bông hoa.

Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi

Cho tôi chiếc hôn nồng cháy

Nỗi đau bắt đầu từ đấy

Ngọt ngào như trái nho tươi.

Có buổi chiều nào mộng mị vây quanh

Nửa vành mi cong hờn dỗi

Em xõa muộn sầu trên gối

Rối bời như mớ tơ xanh.

Có buổi chiều nào hình như chưa nguôi

Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn

Em có lời thề dâng hiến

Cho anh trọn một đời người.

Có buổi chiều nào như chiều nay

Căn phòng anh bóng tối dâng đầy

Anh lặng thầm như là cái bóng

Hoa tàn một mình em không hay.



Bồng bềnh cho tới mai sau


Có con thuyền trong sương trắng
Bồng bềnh như một cánh chim
Có em chèo thuyền áo trắng
Xôn xao như trốn, như tìm
Có vầng mặt trời rực sáng
Bồi hồi như một trái tim

Em chèo thuyền về phía hướng đông
Hứng chút phấn mặt trời trên má
Bụi mặt trời vương đầy gót chân
In những dấu hoa hài trên sóng
Anh mãi nghe từ đáy màu sương mỏng
Bài hát tình yêu dậy một phương hồng

Từ thuở nào vũ trụ đã sinh ra
Mà sao mặt trời mỗi ngày vẫn trẻ
Mà sao anh như đã từ vạn kỷ
Bên sông này đứng hát mặt trời lên
Vẫn đi hoài trong cõi vô biên
Mặt trăng là mảnh gương riêng soi trái đất
Trái đất trôi như một cánh bèo dâu
Mặt trời nhiều khi phập phồng hơi thở
Mê man nhớ những tinh cầu

Những hành tinh ngẫm rồi thấy lạ
Bềnh bồng mà vẫn theo nhau
Anh với em, ừ thì cũng lạ
Bềnh bồng cho tới mai sau



Cỏ, chim sẻ và châu chấu


1.
Có nhiều khi tôi quá buồn
Tôi ước mong về ngồi dưới cội cây xưa
Em có nhắn điều gì theo lá rụng
Ký ức nào khẽ động vai tôi

Dáng ai như tôi đi qua cánh đồng
Thu nhặt lại mình trên ngọn gió
Giống như con chim sẻ nọ
Thu về từng cọng vàng khô

2.
Có nhiều khi tôi quá buồn
Tôi ước mong chung quanh chỗ tôi ngồi
Mọc lên thật nhiều cây cỏ
Cây xấu hổ đau gì mà rủ lá
Tôi gập người trên bóng tôi

Không nghe tiếng ai nói cười
Tôi còn ngồi chi đây một mình
Cắn móng tay từng ký ức mong manh
Giống như con châu chấu nọ
Gặm hoài lá cỏ xanh.

READ MORE - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - THƠ

Tuesday, August 24, 2010

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - ẨM THỰC QUẢNG TRỊ

Chủ quán cháo bột Thu Thủy ở Hải Lăng. Ảnh NKP



ẨM THỰC QUẢNG TRỊ

Với cách nhìn từ xa, nhiều người thường nghĩ rằng Quảng Trị không có gì đáng nói về văn hoá ẩm thực. Sự ăn uống hàng ngày thì mang tính kiệm ước, không đáng để gọi là một "nền văn hóa". Theo tôi nghĩ, người Quảng Trị nào cũng có một cách ăn uống thường nhật, cần thiết đãi một số bạn bè trong quan hệ giao lưu của mình.

Nói tóm lại, người Quảng Trị cũng như ai, có một "tâm hồn ăn uống" gắn bó với những nét đặc trưng của quê hương mình. Vậy nên không thể nói rằng Quảng Trị không có văn hóa ẩm thực.

Hồi tôi còn bé, thường theo ông nội tôi về thăm quê tại Quảng Trị. Ở đó, ông tôi thường ghé thăm một người chú họ của tôi, vốn ít thuộc nòi thi lễ của gia đình tôi. Thím tôi lúc ấy liền mang rổ đến chợ quê trong làng mua vài con cá tràu và một ít môn ngọt về nấu canh theo khẩu vị của ông tôi. Thím tôi om thịt cá tràu cho vào nồi canh môn đang sôi, đồng thời gọt mấy trái dưa quả băm thành những mẩu nhỏ, đem trộn với món dưa cải đắng dùng làm rau sống ăn với món canh môn rất mát miệng.


Những thanh bột hình vạt giường quyết định độ ngon của cháo

Thím tôi vốn học được nhiều cách kho nấu của người Huế, nhưng ở món ăn này, phải thừa nhận rằng đây là nét bổ sung của văn hoá ẩm thực Quảng Trị: trước khi trộn lẫn cải với dưa quả, thím tôi xắt nhỏ những lá cải xanh theo lối thái chỉ, ăn với canh môn xem ra vừa thấm tháp hơn, lại nữa dĩa rau sống trông càng lịch sự, đẹp mắt hơn. Chính người Huế khi dùng món canh môn này cũng chỉ xắt lá cải xanh thành từng đoạn nhỏ chứ không thái chỉ như vậy. Những món ăn xứ Huế qua bàn tay chế biến của người phụ nữ Quảng Trị đã hoàn thiện một cách tỉ mỉ hơn, lịch sự và đẹp mắt hơn.

Vẫn tiếp tục câu chuyện văn hoá ẩm thực của miền đất Quảng Trị. Trong khói lửa mịt mù của cuộc chiến tranh chống Pháp, tại một vùng sơn cước quê tôi, đã thịnh hành một món ăn dùng để chống đói, gọi là bánh tu huýt. Người ta lấy sắn (khoai mì) xắt lát phơi khô đem trộn với nước giếng cho thành bột thật nhuyễn.

Nhiều khi vội quá, người ta dùng cả bột sắn tươi, nghĩa là lấy củ sắn tươi bóc vỏ đem mài vào một tấm nhôm chi chít những lỗ đinh, cho ra một thứ bột ướt. Bột được vắt chung quanh thành một chiếc đũa, thành một nắm cỡ mắm xôi; trong ruột nắm bột có một lỗ hình ống khi rút chiếc đũa ra. Thả nắm bột vào nồi nước sôi, khi chín vớt ra, để nguội và đem chấm với nước mắm hoặc ruốc ăn thay cơm. Thứ bánh được gọi là bánh tu huýt này làm thuần bằng bột sắn thô nên rất khó ăn, những cũng giúp dân quê tôi đỡ đói lòng qua những năm đánh giặc.


Tôi nhớ có đọc một cuốn sách về âm nhạc thời Hùng Vương; trong đó nhà nghiên cứu có nói đến một thứ nhạc cụ mang hình con chim tu huýt (là hình tượng vật tổ của dân tộc Việt Nam, thường xuất hiện trên mặt những chiếc trống đồng). Nhà nghiên cứu nói rằng chính làng quê Việt Nam vẫn tìm cách nuôi dưỡng chút hồn nước dưới hình thức con chim tu huýt.

Còn tôi thì nghĩ rằng cái tên "bánh tu huýt" chắc chắn có liên hệ với cái hình ảnh con chim tu huýt trong câu chuyện về âm nhạc nói trên. Mỗi lần nhắc đến bánh tu huýt, để cho cái món ăn đắng họng ấy trở nên có màu sắc "sử thi" hơn một chút, tôi gọi tên là " bánh tu huýt thời kỳ Hùng Vương".

Hàng trăm loại thức ăn mang tinh thần "bánh tu huýt thời kỳ Hùng Vương" của người Quảng Trị đều ít nhiều phản ánh tinh thần chịu đựng khó khăn để giành được thắng lợi của vùng đất anh hùng. Không phải nói quá đáng nhưng "tính liều chết" để nhảy ra khỏi tình hình khó khăn là một kinh nghiệm hàng đầu của văn hoá ẩm thực người Quảng Trị.

Xông thẳng vào nơi khó khăn để tìm cách "vượt khó", đó không những là bài học về cách sống mà còn là " tâm hồn ăn uống" của người Quảng Trị hay nói "dễ như ớt" (dễ ợt). Nghĩa là, nếu không có cái để làm món ăn, người ta hái luôn một nắm ớt chìa vôi (rất cay) sắp vào đĩa, đem hấp cơm rồi chấm với nước ruốc làm thức ăn. Nói "dễ như ớt" là thế!

Hành động tiêu biểu cho toàn bộ nghệ thuật ẩm thực Quảng Trị là nấu cháo vạt giường. Món cháo này tuy đơn giản nhưng rốt cuộc cũng tuỳ thuộc vào bàn tay chế biến của mỗi người. Người ta nói "bà Phan là một tay sát cháo vạt giường cự phách" nhất Đông Hà có nghĩa rằng "bà Phan là người nấu cháo vạt giường ngon" nhất thị xã. Quả vậy, những thanh bột hình vạt giường có tính quyết định đối với sự ngon dở của nồi cháo. Trước hết là cách pha bột: nếu pha loãng thì vạt giường sẽ dính vào răng rất khó nhai. Chẳng những vạt giường phải đúng quy cách của nó mà nước nấu cháo múc ở giếng nào, con cá nấu cháo sống ở cánh đồng nào, tất cả hương vị đất đai thổ nhưỡng ấy đều có ảnh hưởng đối với cháo vạt giường. Vì vậy mới nói "bà Phan là một tay sát cháo vạt giường cự phách".

Trời lạnh buốt xương, ngủ dậy ngồi co hai chân lên giường, bưng tô cháo vạt giường húp nghe dậy mùi tiêu thơm lừng, toát cả mồ hôi nơi sống lưng, ấy là cái thú bậc nhất trần gian của người Quảng Trị.

Cháo vạt giường nổi tiếng khắp Quảng Trị nhưng chỉ ở địa bàn Diên Sanh, huyện Hải Lăng cháo vạt giường mới đạt đến mức độ tuyệt chiêu của nó. Người ta bảo "chưa mê cháo vạt giường Diên Sanh chưa phải là dân Quảng Trị". Dù ở đâu cũng chừng ấy bột, mức nước, đồ gia vị, ở đâu cũng chừng ấy con cá lóc mà không hiểu tại sao ở Diên Sanh, món cháo vạt giường lại ngon đến như vậy, như thuộc về một đẳng cấp khác. Đủ để mùi vị xao xuyến cả một đời người; dẫu có đi định cư ở nước ngoài khi về Sài Gòn cũng nhất thiết lấy một tấm vé máy bay bay ra miền Trung để nếm lại hương vị bát cháo vạt giường thơm lừng nơi cố quận. Cái ngon của cháo vạt giường Diên Sanh mãi mãi là một bí ẩn thuộc về trời đất, mãi mãi là điều bí mật của một vùng đất.


Cá tràu (cá lóc) - nguyên liệu của nồi cháo

Nhớ kỳ lễ tết có bạn trong Huế ra chơi, trời thì lạnh rây rây. Năm bảy đứa chúng tôi đạp xe từ thị xã Quảng Trị về Diên San ăn cháo vạt giường, dù ở thị xã cũng có món xôi - lòng thả rất nổi tiếng. Vừa đạp xe đến chợ Diên Sanh, nghe bay lên mùi xào nấu đã thấy ngậm ngùi! Bát cháo vạt giường ở Diên Sanh quả là danh bất hư truyền, bạn tôi cho rằng dẫu phải đi máy bay từ Mỹ về đây cũng không uổng công.

Nói là thế những vẫn cần một yếu tố thêm vào để hiểu ra tài hoa của một vùng đất. Mùa hè và mùa thu, trên mặt cánh đông trơ cuống ra, ếch nhái sinh nở nhiều, cứ mỗi bước chân người lại nhảy lên một đám như mưa rào. Đội quân săn lùng nguyên liệu cho món cháo vạt giường chúng tôi toả ra khắp cánh đồng, dùng cành tre hay cành liễu quất sàn sạt vào những đám sinh vật đang phóng lên. Chúng rất dễ chết hoặc bị thương, nhiều khi chỉ giật mình cũng nằm yên trên mặt cỏ.

Chúng tôi chỉ cần nhặt những con nhái ngất ngư lên rồi xâu chúng vào một sợi lạt dài mang theo. Đi chừng một quãng đồng, xem ra những dây xâu nhái đã nặng cánh tay, chúng tôi quay về nhà. Tất cả các xâu nhái đều được treo lên sợi dây phơi áo quần ở giữa sân để phơi nắng. Sau đó những dây nhái được dời vào bên cạnh bếp khiến chúng khô ráo hẳn. Người ta rang chúng trong cái chảo, rồi từng mớ lần lượt được bỏ vào cối giã. Xương, mắt, ruột rà và bàn chân nhái được loại bỏ: chỉ còn một mớ bột nhái thơm đến điếc mũi, muốn ăn ngay tức khắc. Bột nhái được đựng trong những chiếc thẩu lớn dùng làm bột nêm ăn dài ngày. Có nhiều bà mẹ Hải Lăng cấm con gái dùng bột ngọt kho nấu.

Nêm bằng ruốc vẫn ngon hơn bởi vì chất đạm động vật luôn luôn ngon hơn đạm thực vật. Bột nhái lại càng đậm đà không gì so sánh được. Tôi tin rằng hương vị mê hồn của món cháo vạt giường gắn liền với những mùa nhái trên cánh đồng Hải Lăng.

Lần hồi, những món ăn thời đi khai phá Ô-Lý cũng mất dần trong ẩm thực của người dân Quảng Trị; mất dần những món ăn "trời sợ" trong ẩm thực thường nhật của người Quảng Trị. Những cách ăn "lai" Huế cũng lần lượt xuất hiện trong bếp ăn những nhà giàu có hoặc quyền quý. Cách mạng tháng Tám diễn ra, xoá sạch những nét du nhập nói trên, chỉ để lại những gì là món chế biến độc đáo của người trong cuộc; món cháo vạt giường trên đây là một ví dụ tiêu biểu.

Theo Bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường

http://netlife.vietnamnet.vn//vn/an/6339/index.aspx

http://www.anhk19.com/anhk19/diendan/index.php?showtopic=2473
READ MORE - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - ẨM THỰC QUẢNG TRỊ

Friday, August 13, 2010

RA QUẢNG TRỊ THƯỞNG THỨC XÔI NẾP LÀO



Cái ngon từ miếng xôi mềm, vị béo do nếp và đậu phộng hòa lẫn tạo nên vị ngon đặc trưng của xôi nếp Lào. Có cảm giác như chưa kịp nhai thì xôi đã rã trong miệng...

Đến Quảng Trị, món xôi nếp Lào là một trong những món ăn thường thấy trong các thực đơn ở các quán ăn hay trên các bàn tiệc, vừa như một món chủ lực, vừa như một món điểm xuyết trang trí thêm cho phong phú thực đơn. Giữa những món đặc sản độc chiêu chỉ có ở Quảng Trị như thịt rừng, dĩa xôi đậu phộng trông có vẻ lạc lõng và không đúng điệu lắm, hình thức trình bày cũng không bắt mắt, nhưng đã ăn một lần thì có lẽ khó ai quên!


Quảng Trị là một tỉnh duyên hải miền Trung, có đường biên giới phía Tây với nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào dài khoảng 206 km. Tại cửa khẩu Lao Bảo thuộc tỉnh Quảng Trị, hàng hóa từ các nước láng giềng mang sang rất phong phú và nếp Lào là một trong các loại hàng nông sản được tiêu thụ mạnh ở đây.


Xôi nếp là món ăn truyền thống của người Lào, người ta cho rằng người Lào ăn xôi nhiều hơn ăn cơm và gạo nếp gần như lương thực hàng ngày của họ. Nhà nào cũng có những cái chõ hong xôi được sử dụng thường xuyên mỗi ngày. Ở Lào, cơm nếp thường được dát lên những bức tượng Phật hoặc những bức tường nhà ở gia đình để cúng cho các vị thần cư ngụ tại đó. Phụ nữ thường được liên tưởng mạnh mẽ với lúa gạo.


Truyền thuyết kể rằng, nữ thần lúa đã hiến dâng mình cho ngọn lửa và tro của nữ thần đã giúp cho dân làng được một mùa bội thu. Ở một số làng bản, hài cốt của những người phụ nữ tổ tiên được lưu giữ trong ngôi tháp nhỏ xây giữa ruộng lúa của gia đình.

Hạt nếp Lào nhìn qua trông giống như một loại gạo hạt dài, màu trắng trong. Để xôi ngon, người ta không nấu như cách bình thường (đổ ít nước vào nếp) mà nấu bằng chõ.


Cách nấu xôi theo kiểu truyền thống của người Lào là đựng trong ống nứa và nấu bằng nước suối. Bỏ nếp và ít nước vào ống nứa rồi nướng nguyên cái ống nứa này trên lửa than. Khi ống nứa cháy sém cũng là lúc xôi cạn nước, sau đó ủ xôi cho chín. Khi ăn, gọt lớp vỏ nứa bên ngoài là lộ ra phần xôi nếp màu trắng được bọc bằng lớp vỏ lụa của ống nứa. Khối xôi nếp lúc này có hình dáng như một cái ống, thơm mùi nứa, chỉ việc dùng tay bốc ăn. Nếp Lào dẻo, ráo nên không dính vào tay.


Các tour du lịch đến Lào luôn có món xôi nếp giới thiệu với khách. Ăn kèm với xôi là thịt gà nướng hay cá kho riềng và thêm món rau như bông bí, đọt bầu, đọt bí luộc chấm với một loại mắm giống như mắm nêm của Việt Nam.


Tại chợ Lao Bảo có bán loại chõ nấu xôi cũng có xuất xứ từ Lào hay Thái. Chõ làm bằng nhôm có hình dáng bầu tròn, phía trên đặt cái rổ đan kín bằng tre, giá khoảng 45 ngàn đồng một bộ. Khi nấu, bỏ nếp vào rổ rồi đậy nắp. Nếp chín nhờ hơi nước từ bên trong nồi chõ bốc lên. Sau khi nấu xong, người ta lại xới xôi bỏ ra một cái rổ khác (cho có độ thoáng, xôi ráo, ngon, không bị ứ nước). Xôi nếp Lào thường ăn với các món mặn như: thịt nướng hay ram, chà bông hay cá kho…

Cái ngon đặc trưng của hạt nếp Lào là dẻo và thơm. Thoạt nhìn dĩa xôi thấy hạt gạo nếp còn nguyên hình dáng, dễ lầm tưởng là xôi bị khô, cứng. Tuy nhiên, ăn vào mới cảm nhận được độ dẻo, ngọt và hơi có chút vị béo giống như là xôi có nước dừa nhưng hoàn toàn không phải! Cái ngon từ miếng xôi mềm, vị béo do nếp và đậu phộng hòa lẫn tạo nên vị ngon đặc trưng của xôi nếp Lào. Có cảm giác như chưa kịp nhai thì xôi đã rã trong miệng!


Còn một cách thưởng thức hạt nếp Lào là ăn thử một miếng xôi không có đậu phộng và xôi đã đơm cùng đậu để vừa ăn, vừa so sánh và cảm nhận thấy rằng vị béo từ nếp đã làm thành vị ngon đặc trưng rất riêng của món ăn dân dã này. Nếp Lào có một ưu việt nữa là dùng để gói bánh chưng cũng rất ngon. Vào dịp tết, tại cửa khẩu Lao Bảo, nhộn nhịp khách các nơi đổ về mua nếp Lào. Một hàng bán lẻ có thể bán tới cả chục tấn nếp mỗi ngày.


Đặc biệt, nếp Lào nấu cơm rượu cũng ngon không kém. Hạt nếp tơi, rời và mềm còn nguyên dáng vẻ ban đầu cho dù đã qua quá trình lên men. Thêm nữa, lẫn trong vị ngọt của cơm rượu có lẫn vị béo của hạt nếp, khác hẳn với cơm rượu nấu bằng nếp thường.

Không cần phải làm chuyến du lịch sang Lào, chỉ cần đến Quảng Trị hay Lao Bảo là du khách có thể mua được ít nếp Lào và thêm một cái chõ về cho đúng điệu. Đơn giản là nấu xôi đậu phộng là ai cũng sẽ tận hưởng được hết vị ngon của gạo nếp nước bạn láng giềng. Phong phú hơn, nồi cơm rượu bằng nếp Lào cũng là một món ngon để khách phương xa nhớ về hương vị Lào trên đất Quảng Trị.


L.A (sưu tầm)

Báo Công an TP HCM

Thứ sáu, 19/03/2010

READ MORE - RA QUẢNG TRỊ THƯỞNG THỨC XÔI NẾP LÀO

NGUYỄN ĐĂNG DƯƠNG - CANH ÁM LÀNG LAM

Cây rau Sôông

Cùng với cháo bột Kẻ Diên, bánh ướt Phương Lang, mắm đam Trà Trì, thì Canh ám làng Lam luôn là một trong những đặc sản ẩm thực của quê hương Hải Lăng, một món ăn mà những người con quê hương chúng tôi luôn nghiền và tự hào.

Làng Lam Thuỷ quê tôi thuộc xã Hải Vĩnh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị – nơi có dòng sông Vĩnh Định hiền hoà chảy qua chia làng làm hai nửa. Ở nơi đó dù là trai hay gái, già hay trẻ đều nấu được món Canh Ám mang nặng nghĩa tình quê hương này.

Canh Ám được nấu từ 2 loại thực phẩm chính đó là: cá lóc (quê tôi gọi là cá tràu) và rau Sôông.

Muốn nấu canh ngon thì cá lóc phải là cá lóc đồng, nếu cá có trứng là càng tuyệt vời. Cá lóc được làm sạch khi đang sống, thái từng lát. Sau khi làm xong, bỏ cá vào Soong rồi đổ ít nước vào và đun sôi bằng lửa than. Khi cá vừa chín, đổ gia vị vào (gia vị đã được ướp sẳn, gồm: ném hạt đã được giả, dầu ăn, ớt bột, muối, bột ngọt, 1 ít tiêu và đường). Tiếp tục đun cho cá vừa thấm gia vị (vừa sôi) thì thôi đun lửa.

Rau Sôông là một loại cây rau dại rất dễ trồng, thân có nhiều gai nhọn như cây hoa hồng; lá có vị chua, hình như bàn tay; cây già có hoa màu vàng. Khi nấu canh, rau phải tươi, vừa hái trên cây xuống, rửa sạch. Rau ở đây tức là gồm cả lá, cọng và thân non của cây (Nhiều người nấu canh chỉ lấy phần lá, nhưng thực tế như vậy là không ngon lắm). Cọng và thân cây có thể cắt làm từng đoạn hoặc cuộn tròn rồi cho vào Sôông đổ nước vào rồi đun lửa. Khi nước sôi 1 hồi, vớt cọng và thân cây ra (vì nếu để thì khi ăn dễ mắc xương của cây và nhìn nồi canh không đẹp, không hấp dẫn) cho lá rau rồi cho cá lóc vào nồi (cá đã xào với gia vị). Tiếp tục đun cho nồi canh vừa sôi là được. Nếu nấu chuẩn thì trứng cá lóc được phi gia vị sẻ nỗi trên mặt nồi, lấp lánh vàng đỏ trong rất hấp dẫn. Trong khi đó thì nước canh sẻ trong vắt, có thể nhìn được những lát cá chìm dưới đáy nồi.

Khi thưởng thức nước canh rau sôông vừa béo, vừa có vị chua nhạt, vị chát. Chỉ cần chan nước canh vào bát cơm trắng cũng đã thấy ngon rồi. Thông thường, đi kèm theo món canh này là rau sống. Rau sống ở quê tôi được làm từ: cải tươi non (cắt nhỏ), cây chuối đá non bằng cổ tay được bóc rồi thái mỏng, bắp chuối non được thái mỏng, ngoài ra có thể có thêm cánh hoa Thọ và 1 ít giá.... Khi chan canh lên bát, rồi bỏ rau sống vào ăn cùng thì đúng là một món ăn ngon khó quên. Trường hợp những ai quá hơi men, thì canh Ám là giải pháp hửu ích để giả ruợu, lấy lại thăng bằng.

Món ăn này được người dân quê tôi dùng trong các bữa ăn hàng ngày, các ngày giỗ, tết (trước đây còn dùng trong các ngày cưới, nhưng với sự phát triển của xã hội, đời sống nhân dân ngày càng một đi lên nên trong các lễ cưới người ta dọn các món ăn lạ, cầu kỳ và đắt tiền hơn).

Nếu ai đã thưởng thức Canh Ám làng Lam thì đi xa luôn nhớ; nếu ai chưa được thưởng thức nếu có điều kiện về thăm quê tôi, tôi và mọi người đều sẵn sàng chiêu đãi món ngon này./.

Nguồn: my.opera.com/duongdangqt/blog
READ MORE - NGUYỄN ĐĂNG DƯƠNG - CANH ÁM LÀNG LAM