THỊ TRẤN BẠCH DƯƠNG (Kỳ 3/3)
Truyện ngắn của Alice Munro
Người dịch: Nguyễn
Đức Tùng
Chìa khoá nhà ông
ta được đặt lên sàn nhà của phòng tôi, luồn qua khe cửa hẹp khi tôi không ở đó.
Nhưng cuối cùng tôi cũng không cần dùng tới nó. Nếu có một người nào khác cho
tôi một cơ hội như thế tôi sẽ mừng rỡ bắt lấy. Nhất là khi lại có cả một lò sưởi
ấm. Nhưng trong trường hợp này sự có mặt trong quá khứ và tương lai của vị bác
sĩ sẽ làm cho mọi tình huống trở nên không dễ chịu chút nào và làm cho sự thoải
mái bình thường biến mất, thay vào đó là một niềm vui khác, căng thẳng, mệt mỏi
hơn là lâng lâng. Ngay cả khi trời không lạnh tôi vẫn không ngừng run lên, và
tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có đủ tâm trí để ngồi đó mà đọc cho dù một con chữ.
Tôi sợ Mary một
ngày nào sẽ tới trách móc tôi đã không đi xem vở kịch của nó. Tôi thầm nghĩ sẽ
nói là mình không khỏe. Tôi bị cảm cúm. Nhưng tôi nhớ lại ở nơi đây bệnh cảm là
một bệnh khá nguy hiểm, phải mang khẩu trang và bôi thuốc sát trùng, bị xua đuổi.
Và rồi chỉ một thời gian ngắn tôi hiểu ra rằng không hy vọng gì giấu được chuyện
thăm viếng nhà ông bác sĩ kia. Đó không phải là chuyện bí mật có thể qua mắt
người khác ở đây, ngay cả với những người y tá thường không nói gì, hoặc là vì
họ quá kiêu kỳ và tế nhị hoặc là những chuyện như thế từ lâu đã không làm họ
chú ý. Nhưng mấy cô hộ lý thì trêu ghẹo.
“Cô giáo ăn tối bữa
kia có vui không?”
Giọng nói của họ
thân mật, ra vẻ tán đồng. Hình như vẻ kỳ quặc của tôi cũng phần nào thích hợp với
vẻ kỳ quặc đã trở nên quen thuộc và được trọng nể của ông bác sĩ, vàhọ cho đây
là chuyện tốt. Người khác nhìn tôi với cặp mắt kính nể. Bây giờ thì bất kể tôi
là cái thứ gì, rõ ràng tôi có thể trở thành một người phụ nữ có bạn trai.
Mary biến mất
không thấy mặt đâu cả tuần lễ.
“Thứ bảy tuần tới,”
là những chữ ông ta nói khi đặt nụ hôn lên trán tôi. Như thế, trước cửa, tôi lại
đứng chờ lần nữa, và lần này ông ta tới đúng giờ. Chúng tôi tới nhà và tôi đi
thẳng tới phòng phía trước trong khi ông đốt lò sưởi. Ngồi ở đó tôi nhận ra cái
máy sưởi bằng điện.
“Cô đã không nhận
lời mời của tôi tới đây đọc sách,” ông ta nói. “Có phải cô đã từng nghĩ rằng
tôi chỉ nói cho vui vậy thôi? Tôi bao giờ cũng định tâm thực hiện điều mình
nói.”
Tôi bảo ông tôi đã
không muốn vào khu phố vì sợ gặp phải con bé Mary.
“Bởi vì tôi không
tới dự buổi ca kịch của nó.”
“Sẽ là thế nếu cô
cứ phải thu xếp đời mình sao cho phù hợp với con bé Mary,” ông ta nói.
Thực đơn cũng khá
giống lần trước. Thịt heocốt lết, khoai tây nghiền, bắp thay vì đậu. Lần này
ông ta để tôi giúp việc trong bếp, thậm chí nhờ tôi dọn bàn.
“Cô có thể làm
quen với những đồ đạc đâu đó trong nhà. Thế thì dễ hơn cho chúng ta, tôi nghĩ vậy.”
Nói thế tức là tôi
có thể ngắm ông ta làm việc quanh cái bếp lò. Sự tỉ mỉ khoan thai của ông, những
cử động tiết kiệm, trông đẹp mắtđã làm tâm hồn tôi vừa run lạnh vừa tí tách reo
vui.
Chúng tôi vừa bắt
đầu ăn tối thì có tiếng gõ cửa. Ông đứng lên xoay nắm cửa và con bé Mary lao ào
vào.
Con bé mang một hộp
các tông để lên bàn. Nó ném cái áo khoác của mình và hiện ra trong một bộ đồ
hóa trang màu đỏ và vàng.
“Chúc mừng ngày
Valentine hơi trễ,” nó nói. “Các vị không đến xem tôi trong buổi ca nhạc vì vậy
tôi mang buổi ca nhạc lại cho mấy người. Và mang theo một gói quà trong hộp.”
Sự cân bằng tuyệt
vời của nó đã giúp nó đứng trên một chântrong lúc đá văng chiếc ủng ra khỏi
chân kia, rồi rồi lại chuyển chân và tiếp tục như thế. Nó hất đôi ủng qua một
bên rồi bắt đầu đi vòng quanh bàn, hát bằng một giọng thê lương nhưng mạnh mẽ
trẻ trung.
Người ta gọi tôi
là Tiểu Mao Lương,
Tội nghiệp cho Tiểu
Mao Lương,
Dù tôi chẳng bao
giờ biết tại sao.
Nhưng tôi vẫn có
tên là Mao Lương
Tội nghiệp cho Tiểu
Mao Lương
Tiểu Mao Lương yêu
dấu ơi là tôi.
Ông bác sĩ đứng dậy
khi con bé bắt đầu hát. Ông đứng gần bếp, bận rộn cạo món sườn lợn dính chặt
trên chảo rang.
Tôi vỗ tay. Tôi
nói, “Trang phục của em tuyệt đẹp.”
Mà quả thực thế.
Váy đỏ, váy lót vàng sáng, tạp dề trắng rung rinh, vạt áo thêu.
“Mẹ em may nó đấy.”
“Ngay cả mấy đồ
thêu?”
“Đúng vậy. Mẹ thức
suốt đêm đến bốn giờ sáng để may.”
Nó đi vòng quanh
xoay người qua lại để khoe. Những cái dĩa kêu leng keng trên kệ. Tôi vỗ tay vài
lần nữa. Cả hai chúng tôi chỉ muốn một điều. Chúng tôi muốn ông bác sĩ quay người
lại và đừng tiếp tục tảng lờ chúng tôi. Ông ta phải nói một điều gì, dù là miễn
cưỡng, một chữ lịch sự.
“Và nhìn xem có
cái khác nữa,” Mary nói. “Cho ngày lễ Valentine.” Nó mở hộp các tông, những chiếc
bánh bích quy Valentine, tất cả được cắt hình trái tim và được trang trí bằngkem
đường nhuộm đỏ chót.
“Lộng lẫy thế,”
tôi nói, và Mary lại tiếp tục nhảy nhót.
“Tôi là thuyền trưởng
thuyền Pinafore
Một thuyền trưởng
rất tài
Tôi giỏi lắm và mọi
người hãy biết
Tôi chỉ huy đoàn
thủy thủ tuyệt vời.”
Cuối cùng bác sĩ
cũng quay lại và con bé đưa tay chào.
“Được rồi,” ông
nói. “Thế là đủ.”
Con bé lờ đi.
Thế thì xin vỗ tay
ba lần, và thêm một lần nữa,
Cho thuyền trưởng
tài ba của thuyền Pinafore …
“Tôi đã nói thế là
đủ.”
“Cho thuyền trưởng
dũng cảm của Pinafore.”
“Mary. Chúng ta
đang ăn bữa tối. Và em không được mời. Em có biết điều đó không? Không được mời.”
Con bé cuối cùng
cũng im lặng. Nhưng chỉ một lát.
“Quỷ tha ma bắt
ông đi. Ông không tử tế chút nào.”
“Và em cũng không
cần mấy cái bánh ngọt đó nữa. Em có thể ngưng ăn bánh ngọt ngay lúc này. Em
đang bắt đầu mập ú ra như một con lợn nhỏ.”
Mặt Mary đỏ ửng
như sắp khóc nhưng rồi nó nói: “Coi ai đang nói kìa. Ông là đồ mắt lé.”
“Thôi đủ rồi.”
“Nhưng ông đúng
như vậy mà.”
Ông bác sĩ lấy những
chiếc ủng của nó và đặt ngay ngắn trước mặt nó.
“Mang ủng vào.”
Con bé làm theo,
chảy nước mắt và nước mũi. Nó khịt mũi liên tục. Ông đưa cho nó chiếc áo khoác
mà cũng chẳng giúp gì khi nó run rẩy rụt tay vào và lúng túng tìm mấy cái khuy
áo.
“Được rồi. Bây giờ,
em tới đây bằng cách nào?”
Nó không trả lời.
“Đi bộ, phải
không? Mẹ của em đâu?”
“Euchre.”
“Tôi có thể lái xe
đưa em về nhà. Như vậy, em sẽ không còn cơ hội để trượt xuống bờ sông tuyết và
mặc cho mình chết cóng vì nỗi tự thương thân.”
Tôi không nói một
lời nào. Mary không hề nhìn tôi. Giây phút ấy quá sốc để thốt lời tạm biệt.
Khi nghe tiếng xe
nổ máy tôi khởi sự dọn dẹp bàn ăn. Chúng tôi không kịp ăn món tráng miệng, cũng
là món bánh táo nữa. Có lẽ ông không biết bất kỳ loại bánh nào khác, hoặc có lẽ
đó là tất cả những gì mà tiệm bánh làm được.
Tôi chọn một cái
bánh bích quy có hình trái tim và ăn. Kemmàu trét trên bánh quá đỗi ngọt. Không
có mùi dâu tây hay mùi hạnh đào, chỉ có đường và chất nhuộm đỏ. Tôi ăn hết cái
này đến cái khác. Tôi biết lẽ ra nên nói lời tạm biệt với Mary. Tôi nên nói cảm
ơn. Nhưng thứ ấy chẳng quan trọng gì nữa. Tôi tự nhủ chẳng quan trọng. Màn
trình diễn của Mary không phải là cho tôi. Hoặc có lẽ chỉ một phần rất nhỏ là
dành cho tôi.
Ông ta thật thô bạo.
Điều làm tôi kinh hoàng là ông ta lại thô bạo thế. Với một đứa bé đang cần tình
thương. Nhưng ông đã hành xử thô bạo với con bé Mary chỉ vì tôi,có thể hiểu như
vậy. Để cho thời gian của chúng tôi không bị lãng phí đi. Ý tưởng này làm tôi
vui tôi, tôi thấy thật xấu hổ là nó đã làm tôi vui. Tôi không biết phải nói gì
khi ông ta trở lại.
Ông không muốn tôi
nói gì nữa. Ông mang tôi vào giường. Tất cả những điều này có phải được tính
toán trước hay chỉ là bất ngờ, đối với tôi, đối với ông ta? Sự trinh tiết của tôi
ít nhất cũng không bất ngờ – ông ta đưa cho tôi một cái khăn tắm và đã dự trước
một cái bao cao su – và ông ta kiên nhẫn tiếp tục việc ấy dễ dàng. Sự cuồng nhiệt
của tôi làm cho cả hai ngạc nhiên. Trí tưởng tượng, như ta thấy, cũng là một
chuẩn bị tốt đẹp chẳng kém gì kinh nghiệm.
“Anh muốn lấy em
làm vợ,” ông ta nói.
Trước khi đưa tôi
về nhà, ông ném tất cả những cái bánh, tất cả những trái tim màu đỏ ra ngoài trời
tuyết cho bầy chim mùa đông.
Mọi chuyện ổn thoả.
Lễ hứa hôn đột ngột của chúng tôi – ông có phần thận trọng khi dùng chữ ấy– là
một chuyện riêng tư. Tôi không viết một chữ nào cho ông bà tôi cả. Lễ cưới sẽ
được tổ chức khi nào anh ấy có hai ngày nghỉ liên tục. Một đám cưới đạm bạc,
anh bảo. Tôi hiểu ý tưởng ấy về buổi lễ, trước sự hiện diện của những người
khác, mà suy nghĩ của họ về ông không mấy tôn trọng, những người có thể cười nhạo
và bàn tán này nọ, là những điều mà ông không muốn phải chịu đựng.
Ông cũng không mê
chuyện nhẫn kim cương. Tôi cũng nói với ông rằng tôi chẳng muốn nhẫn kim cương,
đó là sự thật, vì tôi chưa hề nghĩ tới. Ông nói điều đó càng tốt, vì ông biết rằng
tôi không phải thuộc loại con gái ngốc ngếch thông thường.
Chúng tôi ngừng ăn
bữa tối với nhau, không phải vì cuộc nói chuyện nhưng vì không đủ thịt cá cho
hai người với một thẻ khẩu phần thức ăn. Thẻ thức ăn của tôi đã được giao cho
nhà bếp – mẹ của Mary – từ khi tôi bắt đầu ăn ở nhà thương.
Tốt hơn cả là
không làm cho người ta lưu ý đến mình.
Tất nhiên mọi người
nghi ngờ. Những người y tá già trở nên thân thiện và ngay cả Matron cũng mỉm cười
với tôi một cách đau khổ. Tôi tự chăm sóc mình một cách khiêm tốn, gần như chẳng
chú ý. Cũng không hẳn, đối với tôi những người phụ nữ lớn tuổi kia đang nhìn
mình dò xét, xem thử sự thân mật sẽ trở thành điều gì và họ sẽ hành xử thích hợp
ra sao nếu lỡ ra ông bác sĩ quyết định bỏ rơi tôi. Chỉ có những người hộ lý là
đứng về phía tôi tận tình, trêu ghẹo tôi rằng họ nhìn thấy những lá trà trong cốc
của tôi giống hình những cái chuông đám cưới.
Tháng ba nghiệt
ngã và bận rộn phía sau cánh cửa bệnh viện. Đó là tháng tệ hại nhất với nhiều rắc
rối, các hộ lý nói. Vì một lý do nào đó, người tacứ chọn tháng đó mà chết, sau
khi đã trải qua hết những gian nan của mùa đông. Nếu một đứa trẻ không tới lớp học
một ngày nọ tôi không thể đoán có phải bệnh tình nó đã tới lúc nguy kịch hay chỉ
là cảm lạnh thường. Tôi dùng một bảng đen di chuyển được và viết tên trẻ em
quanh các cạnh của nó. Thậm chí bây giờ tôi cũng không cần phải lau đi tên của
những đứa trẻ vắng mặt lâu. Những đứa khác làm việc ấy cho tôi, lặng lẽ chẳng
nói lời nào. Chúng hiểu những nghi thức mà tôi còn phải học hỏi.
Tuy thế thời gian
rảnh rồi cũng đến, để ông bác sĩ dàn xếp đám cưới. Ôngnhét một miếng giấy nhỏ
dưới cánh cửa phòng tôi, nói là sẵn sàng trong tuần lễ đầu của tháng tư. Trừ
khi có một biến cố lớn, thế nào ông tacũng có đôi ngày nghỉ phép.
Chúng tôi tới
thành phố Huntsville.
Chúng tôi phải tới
nơi ấy để kết hôn.
Chúng tôi bắt đầu
một ngày mà tôi chắc rằng mình sẽ nhớ mãi suốt đời.
Tôi mang một chiếc
áo nhiễu đã giặt ủi cuộn lại cẩn thận trong chiếc túi. Bà nội tôi đã từng dạy
tôi cách cuộn chúng lại thay vì xếp nếp để tránh những vết nhăn. Tôi nghĩ là
tôi phải thay đồ trong phòng vệ sinh phụ nữ khi có dịp. Tôi tìm nơi có những bụi
hoa dại dọc đường để có thể làm một bó hoa mang theo. Liệu anh ấy có đồng ý để
tôi ôm một bó hoa? Nhưng thời tiết quá sớm ngay cả với cúc vạn thọ đầm lầy. Dọc
theo những con đường hoang vắng ngoằn ngoèo, những cây vân sam gầy guộc, những
đầm lầy và những hòn đảo nhỏ rải rác. Và đột ngột ngang đường lô nhô những tảng
đá đã trở nên quen thuộc với tôi – màu của sắt nhuộm đỏ ửng và đá vân nhạt.
Máy thu thanh trên
xe chơi những điệu nhạc khải hoàn, vì quân đội đồng minh đang tiến gần, ngày
càng gần thành phố Bá Linh. Ông bác si – Alister – bảo rằng họ đang di chuyển
chậm lại để cho người Nga vào thành phố trước. Ông bảo, rồi họ sẽ hối hận vì điều
này.
Bây giờ khi chúng
tôi đã ở xa thị trấn Amundsen tôi nghĩ là tôi có thể gọi ông bằng tên riêng,
anh Alister. Đó là một cuộc lái xe dài mà chúng tôi ngồi bên nhau và tôi cảm thấy
hứng chí, thậm chí kích thích bởi tính cách thản nhiên có vẻ không đoái hoài gì
đến tôi ở anh – điều tôi biết rằng có thể đột ngột biến thành ngược lại – và bởi
tài lái xe điệu nghệ của anh. Tôi cảm thấy phấn khởi vì anh là một bác sĩ phẫu
thuật dù rằng tôi chưa bao giờ thú nhận thế. Lúc này tôi tin rằng tôi có thể nằm
xuống vì anh ở bất cứ một đầm lầy hay lỗ hổng nào, hay cảm thấy xương sống của
tôi muốn gãy trên những mặt đường đầy sỏi đá, nếu anh yêu cầu tôi làm thế. Tôi
cũng biết tôi nên giữ cảm giác này cho riêng mình thôi.
Tôi hướng tâm trí
mình về tương lai. Khi chúng tôi đến thành phố Huntsville chúng tôi sẽ tìm được
một mục sư, sẽ đứng bên nhau trong phòng khách, một nơi có vẻ khiêm tốn dịu
dàng như căn hộ của ông bà tôi, hay như những phòng khách mà tôi đã từng biết
trong đời mình. Tôi nhớ lại thời gian khi ông nội tôi vẫn được người ta mời làm
phép cưới cho dù ông đã về hưu. Bà nội tôi tô một chút phấn hồng lên má, mang
ra một chiếc áo choàng xanh sẫm thêu đăng ten, mà bà vẫn giữ kỹ để tham dự những
dịp trang trọng như thế này.
Nhưng tôi phát hiện
ra là có nhiều cách để lấy chồng, và nmột hiềm khích khác của chàng rể mà tôiđã
chưa rõ. Anh chẳng muốn dính líu tới mục sư. Ở tòa thị sảnh chúng tôi điền những
mẫu đơn, lập lời thề về tình trạng độc thân của mình, và làm hẹn để được kết
hôn bởi một vị thẩm phán dân sự vào cuối ngày.
Thời gian ăn trưa.
Alister dừng lại trước cửa một quán ăn có vẻ có bà con thân thiết với tiệm cà
phê ở Amundsen.
“Tiệm ăn này được
không em?” Nhưng nhìn vào mặt tôi, anh đổi ý.
“Không?” Anh nói.
“Được rồi.”
Cuối cùng chúng
tôi ăn trưa trong một căn phòng lạnh lẽo, là căn trước của một tiệm ăn có quảng
cáo bữa ăn tối với thịt gà. Dĩa thức ăn thì quá lạnh, không có thực khách nào
khác, không có âm nhạc trên máy thu thanh, chỉ có tiếng lách cách của dao nĩa của
chúng tôi khi hai người bận rộn vất vả cắt miếng thịt gà dai. Tôi chắc rằng anh
đang nghĩ là chúng tôi có thể có một bữa ăn tốt hơn ở nơi mà anh đề nghị trước
đó.
Dù sao tôi cũng có
can đảm để hỏi phòng vệ sinh đàn bà, và ở đó trong không khí lạnh buốt thậm chí
còn hơn cả phòng ăn phía trước, tôi mở chiếc áo đầm xanh ra và mặc vào, tô son
môi và sửa lại mái tóc.
Khi tôi bước ra
Alister đứng đó mỉm cười chào, bóp chặt bàn tay tôi và bảo, em thật đẹp.
Chúng tôi bước ra
xe, người cứng lại, tay trong tay. Anh mở cửa xe cho tôi, đi vòng quanh và ngồi
vào ghế, xoay chìa khóa xe một vòng cho nổ máy. Rồi tắt.
Xe hơi đậu trước cửa
một tiệm bán đồ khí cụ gia đình. Những cái xẻng xúc tuyết bán giảm giá còn một
nửa. Vẫn còn treo một cái bảng trên cửa sổ quảng cáo dịch vụ mài sắc bánh xe
trượt băng.
Ở bên kia đường, một
căn nhà gỗ sơn vàng. Cầu thang phía trước trở nên ọp ẹp và hai tấm ván gỗ đóng
lên cửa tạo thành hình chữ X. Chiếc xe tải đậu phía trước xe của Alister thuộc
loại xe trước thế chiến, với một cái chắn ở phía sau đã rỉ sét. Một người đàn
ông bước ra từ tiệm đồ gia dụng và bước vào xe tải. Sau vài tiếng rú gầm gừ, tiếng
lắc cắc, chiếc xe rung lên từng chặp, rồi cũng chạy đi. Kế đến một chiếc xe tải
chở hàng với tên của cửa tiệm chạy lại cố gắng đậu vào chỗ vừa trống. Nhưng chỗ
đậu không đủ. Người tài xế bước ra, tới gần và gõ lên cửa của Alister. Alister
ngạc nhiên – nếu anh ấy không mải mê trò chuyện thì đã nhận ra sự việc. Anh kéo
cửa sổ xuống và người đàn ông kia hỏi rằng liệu chúng tôi có đậu hẳn ở đây
không nếu muốn mua một món đồ trong tiệm. Nếu không phải thế, làm ơn dời xe có
được không?
“Chúng tôi sắp rời
đi.” Alister nói, người đàn ông ngồi bên cạnh tôi nói, người lẽ ra sắp cưới tôi
làm vợ bây giờ sẽ không cưới tôi nữa, nói. “Chúng tôi sắp đi.”
Chúng tôi. Anh ta
nói chữ chúng tôi. Trong một lúc tôi bị ám ảnh về chữ ấy và rồi tôi nghĩ rằng
đó là lần cuối cùng. Lần cuối cùng tôi được đưa vào hai chữ chúng tôi.
Không phải là chữ
chúng tôi có vấn đề gì, chữ ấy không phải là sự thật. Mà chính là giọng nói giữa
cánh đàn ông với nhau mà anh ta nói với người tài xế kia, lời xin lỗi trầm tĩnh
và biết điều. Tôi ước gì có thể quay lại vào phút đầu tiên khi anh ta bắt đầu
nói, khi anh ta không nhận ra chiếc xe tải đang tìm cách đậu vào. Điều anh ta
nói thật khủng khiếp nhưng hai bàn tay nắm chặt trên vô lăng, cái nắm chặt và ý
thức trừu tượng của anh ta và giọng nói của anh đều biểu lộ đau đớn. Không cần
biết anh nói gì, có ý gì, anh nói từ một nơi chốn thâm sâu, đúng là nơi mà anh
đã nói khi chúng tôi nằm bên nhau, làm tình. Nhưng bây giờ thì không phải thế nữa,
sau khi anh đã trò chuyện với người tài xế kia. Anh ta kéo cửa sổ lên và tập
trung vào chiếc xe hơi, tìm cách đưa nó ra khỏi chỗ đậu khá chật hẹp để tránh
khỏi va quẹt vào chếc xe tải kia.
Và chỉ một lát sau
tôi cũng có thể đã vui sướng nếu có dịp trởlại giây phút lúc anh rướn cổ lên và
quay đầu nhìn đằng sau. Cònhơn là lái xe – anh đang lái xe bây giờ – chạy xuống
dọc đường phố chính của thành phố, vì chẳng còn gì để nói nữa hay để tần ngần
xoay xở.
Anh không làm được
chuyện ấy, anh ta nói thế.
Anh nói thế, bảo
anh không thể cáng đáng nổi chuyện này.
Anh cũng không thể
giải thích.
Chẳng qua là nhầm
lẫn.
Tôi nghĩ tôi chẳng
bao giờ có thể nhìn lên dòng chữ vòng vèo trên tấm bảng hiệu quảng cáo nơi mài
sắc lưỡi trượt băng, mà không nghe giọng nói của anh ta vang lên trong đầu. Hay
những tấm bảng gỗ xù xì đóng đinh bằng chữ X trước cửa nhà màu vàng đối diện với
tiệm kia.
“Anh sẽ chở em tới
trạm xe buýt bây giờ. Anh sẽ mua vé cho em về Toronto. Anh chắc rằng sẽ có xe lửa
chạy về Toronto vào chiều tối nay. Anh sẽ nghĩ ra một câu chuyện rất hợp lý và
sẽ nhờ một người nào đó gói ghém đồ đạc cho em. Em cho anh địa chỉ ở Toronto vì
anh không giữ. Ồ, anh sẽ viết cho em một cái thư giới thiệu. Em đã làm việc rất
tốt. Nhưng dù sao em khó có thể làm việc đến mãn khóa– anh chưa nói cho em nghe
nhưng những đứa trẻ sẽ được rời đi. Rất nhiều thay đổi lớn sắp xảy ra.”
Giọng nói của anh
trở nên mới mẻ, gần như hoạt bát vui vẻ. Làm như một gánh nặng đã được trút đi.
Anh ta cố gắng giữ lại điều ấy không muốn vội vàng để lộ cái thở phào nhẹ nhõm
cho đến khi tôi biến mất tăm.
Tôi nhìn xuống đường
phố. Một điều gì đó như thể có ai chở tôi đến đoạn đầu đài. Chưa. Chỉ gần đến
thôi. Cũng chưa hẳn là lần cuối cùng tôi nghe giọng nói của anh. Chưa.
Anh không cần hỏi
đường. Tôi hỏi anh lớn tiếng, liệu có cô gái nào trước đây đã bị anh chở đến xe
lửa như thế này chăng.
“Đừng nói thế.”
Anh bảo.
Mỗi lần rẽ ngoặt
đường là một lần xé rách tươm những mảnh đời còn lại của tôi.
Có xe lửa về
Toronto lúc năm giờ chiều. Anh bảo tôi chờ trong xe hơi trong khi tự mình đi
vào nhà ga. Anh đi ra với tấm vé trên tay và một vật nhỏ mà tôi nghĩ là nắp hộp
quẹt. Anh ta nhận ra điều này vì khi tới gần xe hơi bỗng trở nên lặng lẽ.
“Trời ấm và rất
tuyệt ở trong nhà ga. Có một phòng đợi dành cho phụ nữ rất tốt.”
Anh mở cửa xe cho
tôi.
“Hay là anh nghĩ
anh sẽ chờ cho đến khi em lên xe lửa? Có thể có nơi chúng ta ngồi kiếm một cái
bánh ngọt ngon lành. Bữa ăn lúc nãy thật quá tệ”
Câu nói của anh
làm tôi tức lên. Tôi bước ra khỏi xe đi thẳng tới nhà ga. Anh đưa tay chỉ phòng
đợi của phụ nữ, nhướn mày lên nhìn tôi và cố gắng nói đùa một câu cuối cùng.
“Có thể ngày nào đó em sẽ nhận ra rằng đây là một trong những ngày may mắn nhất
của cuộc đời mình.”
Tôi chọn một băng
ghế dài trong phòng đợi nhìn ra trước sân ga. Nhờ thế tôi có thể nhìn thấy anh
nếu anh trở lại. Anh sẽ nói đây là một chuyện đùa, hay là một phép thử, như
trong các vở kịch thời cổ đại.
Hay có thể anh đổi
ý. Lái xe dọc theo đường cao tốc nhìn thấy ánh sáng mặt trời mùa xuân xanh xám
lướt qua những tảng đá mà chúng tôi đã cùng ngồi bên nhau nhìn chúng. Sực tỉnh
vì nhận ra sự điên rồ của mình anh vòng xe lại ngay trên đường và lao vun vút
trở lại nhà ga.
Một giờ trôi qua
trước khi xe lửa Toronto tới trạm, nhưng hình như thời gian thật ngắn. Và ngay
cả lúc ấy những giấc mộng hoang đường vẫn cứ lướt qua tâm trí tôi. Tôi bước lên
xe mà như gông xiềng kêu lẻng xẻng trên cổ chân. Tôi áp mặt vào cửa sổ nhìn xuống
mặt đường khi còi tàu vang lên từng chặp chuẩn bị rời đi. Ngay cả bây giờ cũng
không quá trễ nếu tôi muốn nhảy khỏi đoàn xe. Nhảy đại và chạy xuyên qua nhà ga
tới đường nơi anh có thể đang đậu xe lại và chạy ngược lên các bậc tam cấp, thầm
nghĩ không quá trễ, trời ơi, cầu xin không quá trễ.
Tôi cũng chạy về
phía anh ta, cũng không quá trễ.
Và rồi sự chấn động,
la hét ầm ĩ, không phải một người mà cả một đám người chạy lăng xăng giữa những
hàng ghế. Những nữ sinh trung học, mặc áo quần thể thao, cười rú lên trước sự
hoảng loạn. Người tài xế xe lửa tỏ vẻ bực mình và hối chúng ngồi vào chỗ.
Một trong những đứa
ấy, có lẽ to tiếng nhất, chính là Mary.
Tôi quay đầu đi và
không nhìn chúng.
Nhưng nó chẳng
tha, kêu tên tôi rõ to và hỏi cô giáo đi đâu mất biệt thời gian qua.
Đi thăm một người
bạn, tôi bảo nó.
Mary nhào tới bên
tôi kể chúng vừa đấu bóng rổ với đội bóng của Hunstville. Hỗn loạn ghê lắm.
Chúng bị thua.
“Tụi mình thua, phải
không?” nó la lớn, rõ ràng là vui vẻ, trong khi những đứa khác rên rỉ hoặc cười
khúc khích. Nó bảo tỉ số quá sức đáng xấu hổ.
“Cô giáo mặc đồ diện
quá,” nó nhận xét nhưng thực ra không chú ý lắm, lắng nghe lời giải thích của
tôi với vẻ hững hờ.
Nó cũng không để
tâm khi tôi nói mình đi về Toronto để thăm ông bà. Ngoại trừ nhận xét rằng chắc
họ phải già lắm rồi. Không một chữ nào về Alister. Ngay cả một lời tồi tệ. Chắc
nó không quên. Chỉ là dọn dẹp, thu cất hoạt cảnh vào ngăn tủ với những hiện
thân quá khứ khác của nó . Hoặc con bé không mấy để tâm những tổn thương kiểu
này.
Tôi biết ơn nó bây
giờ, cho dù lúc đó tôikhông cảm thấy như vậy. Nếu hôm đó chỉ có mình tôi, thì
tôi đã làm chuyện gì khi tới Amundsen? Nhảy khỏi đoàn tàu, xông tới nhà anh ta
và hỏi cho ra lẽ, tại sao, tại sao. Thật là nỗi xấu hổ suốt đời. Khi đến ga, thời
gian tàu dừng chỉ vừa đủ để cả đội bóng tập hợp, đập tay ầm ĩ lên cửa sổ ra dấu
cho người nhà đến đón, trong khi người soát vé không ngừng nhắc nếu chúng không
mau mau ra khỏi tàu thì sẽ bị chở thẳng tới Toronto.
Nhiều năm tôi vẫn
nghĩ có ngày tôi bỗng dưng chạm mặt anh ta. Tôi đã về sống và đến nay vẫn sống ở
Toronto. Đối với tôi hình như người nào cũng có lúc về ở Toronto một thời gian.
Tất nhiên điều đó cũng không có nghĩa là bạn sẽ gặp lại người ấy, ngay cả khi bạn
muốn thế.
Rồi cuối cùng dịp ấy
cũng đến. Băng qua một con đường đông đúc nơi bạn không thể nào bước chậm lại.
Đi ngược chiều nhau. Nhìn sững, đầy kinh ngạc, gương mặt đã sạm nắng gió, đã lấm
tấm màu thời gian của nhau.
Anh ta la lớn, em
có khỏe không? Và tôi trả lời tốt lắm. Và thêm, với vẻ tự hào, “Rất hạnh phúc”
Vào lúc ấy điều đó
chỉ đúng chung chung mà thôi, chứ thực ra tôi đang có chuyện bực mình với chồng
tôi, vì chuyện phải trả nợ nần cho một trong những đứa con của anh ấy. Tôi đã đến
một chương trình biểu diễn ở bảo tàng mỹ thuật chiều hôm ấy, để lấy lại thanh
thản.
Anh ta gọi lại một
lần nữa:
“Mừng cho em.”
Dường như chúng
tôi vẫn có thể bằng cách nào đó dứt ra khỏi đám đông, và trong một thoáng sẽ trở
lại bên nhau như những tình nhân cũ. Nhưng cũng không kém chắc chắn là chúng
tôi mỗi người sẽ đi một đường. Và chúng tôi làm thế thật. Không một than khóc
nghẹn ngào, không một bàn tay đặt trên vai níu tôi lại khi tôi đặt chân lên vỉa
hè. Chỉ là một chớp sáng mà tôi thấy trong giây phút ngắn ngủi, khi một mắt của
anh mở lớn. Đó là con mắt trái, lúc nào cũng mắt trái, như tôi hằng nhớ lại. Và
lúc nào cũng lạ lùng, cảnh giác, tự hỏi, như thể một điều gì không thể nào xảy
ra đang xảy ra với anh, một điều gì khiến anh gần như phá lên cười.
Đối với tôi dường
như chuyện ấy cũng xảy ra lúc tôi rời bỏ Amundsen ngày nọ, chuyến xe lửa kéo
tôi ra khỏi nơi ấy, bàng hoàng, ngơ ngác, không tin được câu chuyện của đời
mình.
Thực ra chẳng có
gì thay đổi về tình yêu.