Tác giả Ngô Văn Ánh
NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỤM TỪ “THANH MAI TRÚC MÔ; DỊCH THƠ “TRƯỜNG CAN HÀNH” CỦA LÝ BẠCH
Là giáo viên đứng lớp giảng dạy hơn 35 năm với 3 môn tạm gọi là sở trường là Ngữ Văn, Lịch Sử và Địa lý thế mà chỉ một cụm từ thông dụng thường được nghe nói hằng ngày đến lúc sắp nghỉ hưu vẫn còn chưa biết! Dù rằng kiến thức nhân loại là vô tận, sự hiểu biết của mỗi người chỉ là hạt cát trong sa mạc mênh mông nhưng tôi vẫn thấy xấu hổ cho chính mình! Thành thật mà nói, cho đến bây giờ tôi mới hiểu được nghĩa và xuất xứ của cụm từ “Thanh mai trúc mã”. Thì ra “Thanh mai trúc mã” là một điển tích lấy từ trong bài thơ Trường Can Hành của thi tiên Lý Bạch đời nhà Đường bên Trung Quốc. Tôi xin chép ra đây bài thơ phiên âm Hán-Việt của Lý Bạch để chúng ta cùng thưởng lãm.
TRƯỜNG CAN HÀNH
Thiếp phát sơ phú ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai.
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi.
Thập ngũ thủy triển mi
Nguyện đồng trần dữ hối
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng phu đài.
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai.
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo.
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Tọa sầu hồng nhan lão.
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương như báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa.
Lý Bạch
Đây là bài thơ ngũ ngôn theo thể Cổ Phong (thể thơ cổ có trước thể thơ Đường) làm theo điệu hát dân gian của người Trung Quốc xưa ( Như ở Việt Nam ta có đồng dao, dân ca…). Bài Trường Can hành kể về cuộc tình của đôi trai gái ở xóm Trường Can. Tạm dịch như sau: Thời nhỏ đôi trẻ chơi thân với nhau rất hồn nhiên. Năm cô gái 14 tuổi thì họ thành vợ chồng. Lúc về làm vợ, cô gái còn xấu hổ thường quay mặt vào tường. Mười lăm tuổi, cô gái bắt đầu lộ vẻ tươi vui. Họ cùng thề nguyền sống với nhau trọn đời dù gặp phải nghèo khó. Hứa sẽ như chàng Vỹ mãi ôm chân cầu (Vỹ Sinh giữ chữ tín cứ ngồi ôm chân cầu chờ đợi cho đến khi nước ngập mà chết) và sẽ làm người Vọng phu đứng trông chồng. Mười sáu tuổi họ xa nhau vì chồng phải đến tận chốn xa xôi. Tháng Năm nước lớn không thể đến với chồng được, Tiếng vượn kêu thảm thiết vang vọng trời xanh. Trước sân nhà còn in dấu chân người xưa đã phủ đầy rêu xanh. Rêu dày không thể quét sạch hết được. Gió thu thổi sớm làm lá rụng nhiều. Tháng Tám, từng đôi bướm vàng bay lượn ở thảm cỏ phía tây khu vườn. Nhìn cảnh ấy nàng thấy xót xa cho mình. Ngồi buồn vì tuổi xuân ngày càng phai tàn. Đến Tam Ba dù sớm hay muộn, chàng nhớ gửi thư báo về cho gia đình biết. Nàng sẽ đi thẳng đến Trường Phong Sa đón chàng dù cho đường sá có xa xôi.
Trong bài thơ có chi tiết chàng (lúc nhỏ) lấy cành trúc làm ngựa đến chạy quanh ghế nàng ngồi và ném những quả mơ xanh để chơi đùa (khi nàng đang hái hoa chơi trước sân). Sau này người ta dùng cụm từ “ Thanh mai trúc mã” để chỉ về đôi trai gái trời sinh có duyên nợ xứng đôi vừa lứa từ nhỏ.
Tôi xin mạo muội dịch bài Trường Can Hành của Thi tiên Lý Bạch ra 3 thể thơ khác nhau là Ngũ ngôn, Lục bát và Song thất lục bát. Mong các bạn góp ý giúp đỡ..
TRƯỜNG CAN HÀNH
(Dịch thơ ngũ ngôn)
Tóc nàng xõa chấm trán
Trước sân hái hoa chơi
Ngựa trúc chàng chạy tới
Mơ xanh đùa ghế ngồi.
Cùng ở xóm Trường Can
Đôi trẻ còn trong sáng.
Mười bốn thành vợ chồng
Nàng xấu hổ thẹn thùng
Quay mặt vào vách tối
Mặc cho chàng vẫy gọi.
Mười lăm mày ngài nở
Thề cùng dù nghèo đói
Ôm trụ giữ niềm tin
Lên Vọng phu chờ đợi.
Mười sáu chàng đi xa
Chốn Diễm Dự, Cù Đường
Tháng năm thuyền khó đến
Vượn hú vọng bi thương.
Dấu chân xưa còn đó
Khắp lối phủ rêu xanh
Rêu dày khó xóa sạch
Gió thu lá tan tành.
Tháng tám bươm bướm vàng
Vườn tây từng đôi múa
Thấy cảnh thiếp đau lòng
Ngồi buồn hồng nhan úa.
Về Tam Ba sớm muộn
Chàng nhớ gởi thư nhà
Dù xa xôi vẫn đón
Thiếp tới Trường Phong Sa.
Ngô Văn Ánh
TRƯỜNG CAN HÀNH
(Dịch thơ lục bát)
Tóc em chấm trán xõa dài
Hái hoa trước cửa nắng mai vui đùa
Ngựa trúc chàng đến bất ngờ
Vờn quanh ghế nhỏ ném đùa mơ xanh
Trường Can xóm nhỏ yên bình
Ngây thơ hai trẻ vô tình hồn nhiên
Tơ hồng, Nguyệt lão xe duyên
Tròn mười bồn tuổi đã nên vợ chồng
Em còn xấu hổ, thẹn thùng
Quay vào vách tối mặc chồng gọi kêu.
Mười lăm mày phượng mỹ miều
Nguyện dù nghèo khổ vẫn yêu trọn đời
Một lòng ôm trụ giữ lời
Xin lên núi đá làm người vọng phu.
Mười sáu xa cách tuyệt mù
Cù Đường, Diễm Dự biên khu việc chàng
Tháng năm nước lớn khó sang
Vượn kêu ai oán đại ngàn vọng ra
Dấu chân còn trước sân nhà
Bóng xưa phủ kín nhạt nhòa rêu xanh
Quét rêu xóa hết sao đành
Gió thu thổi sớm tan tành lá rơi
Bướm vàng tháng tám rợp trời
Từng đôi bay lượn chẳng rời vườn tây
Cảnh như xé nát lòng nầy
Ngồi buồn gặm nhấm hao gầy tuổi xuân.
Tam Ba về tới, phu quân
Phong thư xin báo tin mừng nhà hay
Đường xa em cũng đi ngay
Trường Phong thẳng đến vui say đón chàng.
Ngô Văn Ánh
TRƯỜNG CAN HÀNH
(Dịch thơ song thất lục bát)
Thuở ấu thơ tóc còn xõa trán
Thiếp hái hoa nắng sớm trước sân
Ngựa trúc, chàng phóng lại gần
Đùa quanh ghế nhỏ ném chùm mơ xanh.
Xóm Trường Can, yến oanh đôi trẻ
Cùng thơ ngây có ngại ngùng chi
Thiếp vừa mười bốn xuân thì
Nên duyên chồng vợ biết gì phu thê.
Thiếp xấu hổ, đêm về chung bóng
Ngoãnh vào tường lóng ngóng làm ngơ
Mặc cho chàng mãi gọi chờ
Rèm mi run rẩy, hững hờ bờ vai.
Mười lăm tuổi, mày ngài mắt phượng
Nghĩa tào khang càng đượm càng sâu
Nguyện cùng trọn kiếp ôm cầu
Vọng phu núi đá dãi dầu cũng cam.
Mười sáu tuổi, li tan đôi ngã
Chốn biên khu vất vả riêng chàng
Cù Đường, Diễm Dự quan san
Tháng Năm, sông lớn nước tràn khó qua.
Não trời xanh, xót xa vượn hú
Trước hiên nhà xanh phủ đầy rêu
Dấu xưa phai nhạt ít nhiều
Ngậm ngùi cảnh cũ, phòng tiêu lạnh lùng.
Tháng Tám sớm, thu phong lá đỏ
Lũ bướm vàng vờn ngõ vườn tây
Từng đôi bay lượn sum vầy
Tủi thân thiếp sợ hao gầy tuổi xuân.
Đến Tam Ba, phu quân chàng hỡi
Cánh nhạn hồng xin gởi nhà hay
Dù xa, thiếp cũng đi ngay
Trường Sa thẳng tới mừng ngày đoàn viên.
Ngô Văn Ánh
No comments:
Post a Comment