Truyện kiều có ba vụ
án. Vụ thứ nhất: Vương Ông bị vu oan phải chịu tội.
Vụ thứ hai: Thúc Ông kiện con trai và Kiều. Vụ thứ ba:
Kiều xử Hoạn Thư trong cuộc báo ân, báo oán.
Vụ thứ nhất được xử
êm thấm bằng ba trăm lạng. Sau này cụ Tam Nguyên Yên Đổ
hạ một câu thế sự: “Có tiền việc ấy mà xong nhỉ/
Ngày trước làm quan cũng thế a?”. Cụ Nguyễn Tiên Điền
và cụ Nguyên Yên
Đổ nhắc lớp sau này đừng xử kiểu như thế nữa. Vụ
thứ ba, Kiều xử Hoạn Thư. Giữa họ có nhiều ân oán.
Ân ít, oán nhiều, nhưng cái tâm, cái đức của con gái
nhà “thường thường bậc trung” lại lớn hơn cái tâm,
cái đức của con gái quan Thượng thư Bộ Lại nên Hoạn
Thư được tha bổng. Vụ án thứ hai quả là một vụ xử
án đặc biệt ly kỳ, đặc biệt kịch tính, tôi xin đề
cập vụ án thứ hai.
Cụ Nguyễn ơi! Lời đầu
tiên xin chúc mừng Cụ là Cụ đã có được ông quan tài
ba, lỗi lạc. Tình cũng đậm mà tâm cũng dày.
Ta thử xem diễn biến của
phiên tòa. Một quan tòa chính trực oai nghiêm, mặt sắt
đen sì (thiết diện) ngồi ghế chánh án. Ông ngồi ngay
ngắn, chỉnh tề. Hai bên nha lại sẵn sàng đợi lệnh.
Quan liếc nhìn bị cáo đi vào, họ đi song song, dáng đi
uyển chuyển, thong thả gắn bó nhau, tự tin không chút sợ
hãi đến trước sân quỳ lạy. Họ không cúi đầu gầm
mặt mà bình thản ngẩng nhìn quan tòa. Quan nhìn rõ bị
cáo và như bị thôi miên, quan lúng túng muốn nói một
câu gì đó nhưng không cất nên lời. Người mà ta sắp
xử họ là thế này ư? Ông nghĩ. Để giữ lại vi thế
cân bằng, quan liền “Lập nghiêm trước đã
ra uy nặng lời”. “Lập nghiêm trước đã” cũng cho ta
hiểu, sau đó sẽ
bớt nghiêm, hoặc không cần nghiêm nữa, “ra uy nặng
lời” trước đã, sau đó có thể không cần “uy” và
“nặng lời” nữa.
Xưa nay, công đường vốn
là nghiêm và uy, sao hôm nay quan tòa phải “lập nghiêm”
và “ra uy”? Phải chăng bị cáo đã hớp hồn ông? Nếu
không lập được nghiêm, ông sẽ không ngồi nổi trên
ghế chánh án. Nặng lời với bị cáo (Kiều) “Mà còn
người thế”. “Uy nặng lời” mà nghe như tiếng thương
tâm, tiếc nuối, đau xót cho con người hồng nhan bạc
mệnh. Chỉ bốn tiếng “mà con người thế” cũng đủ
cho ta thấy con mắt tinh đời của vị quan tòa. Tuy mới
gặp lần đầu và thời gian ngắn ngủi, ông đã thấy ở
họ giá trị đích thực của tình yêu nên đã dành cho họ
những nhận xét sâu sắc và ân tình. Thúc Sinh yêu Kiều
là thế, sống hết mình và đậm tình với Kiều là thế,
mà khi đứng trước linh sàng bài vị thờ Kiều cũng chỉ
gào lên “con người
thế ấy, thác oan thế này”, phải chăng đó cũng là lời
tiếc thương của
quan tòa hôm xử án.
Ông quan tòa tài ba này chỉ cần
suy và luận để đưa ra hình phạt mà không cần cao giọng
căn cứ điều này, khoản nọ, mục kia. Ông thấy bên
nguyên đang ở trong tình trạng khó xử “bề nào thì
cũng chưa yên bề
nào”, nghĩa là bắt chúng cắt đứt quan hệ cũng chưa
dứt khoát, mà cho
chúng lấy nhau cũng chưa hẳn. Ông lại luận về phép
công (phép chứ không pháp – pháp luật), rồi tuyên bố
có hai cách giải quyết. Ông khẳng định hai chứ không
một cũng không ba.
Ơ! Lạ lùng chưa: quan tòa
lại giao cho bị cáo chọn một trong hai hình phạt một
cách thoải mái và tin cậy “muốn sao mặc mình”. Sao
quan tòa lại gọi bị cáo là “mình”? Thân thiết đến
mức ấy ư? Đến đây, ta thấy ông không “nghiêm” nữa
rồi. Phải chăng, quan tòa mơ hồ muốn dính một tý gì
đó với giai nhân? Giữa công đường ban ngày ban mặt mà
bạo gan riêng tư đến vậy, quả là: “Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vì tình”
“Mình” chọn rồi “ta”
nghe theo thôi. Ông quay lại dạy cho sai nha thi
hành. Dạy chứ không phải lệnh. Sai nha hiểu ý quan, ngầm
bảo: nhẹ tay thôi. Ta thấy ông ngẩn ngơ: Rồi ta sẽ cho
họ sum vầy bằng cách nào đây nếu Thúc Ông không đồng
ý? Giá như ta có điều xử thứ ba là cho ai đó lấy Kiều
làm vợ mà không ai kiện tụng. Không, không thể được,
vì họ yêu nhau đến thế kia mà! Đầu óc ông rối bời,
trống rỗng không thấy gì, nhớ gì. Giữa cái ồn ào
huyên náo của pháp đình, văng vẳng bên tai ông (hay chính
lòng ông) tiếng kêu oan cho bị cáo. Ông bình tĩnh gạn
hỏi kỹ càng. Ông cho dừng hình phạt và bỗng nghe tiếng
ông cười. Quan tòa cười. Tiếng cười nhẹ nhàng, sảng
khoái làm cho không khí pháp đình trong trẻo, sáng sủa
như sau cơn bão. Sau đó, pháp đình trở thành nơi bình
thơ xướng họa. Quan tòa và bị cáo như đôi tri kỷ. Ông
nâng thi phẩm Kiều sánh vai cùng Lý Bạch, Đỗ Phủ (đời
Đường). Có lẽ ông muốn chứng tỏ cho Thúc Ông tự hào
có người con dâu tài sắc vẹn toàn, làm cứu cánh cho
ông mở đường lay chuyển nguyên cáo thay đổi mà cho
chúng kết nghĩa Châu Trần.
Tâm lý ông vừa được giải
tỏa, nhân lúc vui vẻ, ông lựa lời vừa tình vừa lý,
vừa sử dụng kiến thức âm nhạc sành điệu để phân
bua, dàn hòa và cả áp đặt:
“Thôi đừng rước dữ
cưu hờn
Làm chi lỡ nhịp cho đờn
ngang cung
Đã đưa đến trước cửa
công
Ngoài thì là lẽ song
trong là tình
Dâu con trong đạo gia đình
Thôi thì dẹp nổi bất
bình là xong”
Rồi không đợi Thúc Ông có
phản ứng, ông quyết định một việc “động
trời” là xuất công quỹ làm lễ vu quy cho Kiều thật
quý phái:
“Kíp truyền sắm sửa
lễ công
Kiệu hoa cất gió đuốc
hồng điểm sao
Bày hàng cổ xúy xôn xao
Song song đưa tới trướng
đào sánh đôi”
Thật to gan! (1) và thi đàn
sôi nổi được chuyển làm hôn trường ấm áp tình
thương.
Vừa nể lời quan phủ có
lý, có tình, vừa thương vì hạnh, trọng vì tài mà Thúc
Ông quên phéng đi uy quyền của quan Lại Bộ Thượng thư
– thông gia của ông, để cho:
“Huệ lan sực nức một
nhà
Từng cay đắng lại mặn
mà hơn xưa”
Cụ Nguyễn ơi! Cụ viết
hai câu cuối này lúc mấy giờ đêm? Chắc đã quá canh ba
và Cụ không ngủ nữa!
Tôi muốn nói về chữ
“mình” mà quan tòa xưng hô với bị cáo. Tuy chưa đọc
nguyên tác bằng chữ Hán của Thanh Tâm tài nhân, nhưng
chắc chắc tác giả dùng chữ (nỉ – tiếng Trung
Quốc; nhĩ – tiếng Việt) để chỉ ngôi thứ hai. Quan
tòa ngôi thứ nhất, bị cáo ngôi thứ hai. Dịch giả dịch
ra vị thư như thế nào tùy thuộc thái độ của tác giả
với nhân vật. ở trường hợp này, bị cáo là phái yếu.
Nếu giận thì gọi là “mày”,
lịch sự một chút thì gọi là “bà”, thương cảm với
cô gái trẻ trung
thì gọi là “nàng”, nhưng ở đây, Cụ cho quan tòa gọi
Kiều là “mình”.
“Mình” đã hóa thân thành “ta”. Ngôi thứ hai biến
vào ngôi thứ nhất.
Xin chịu Cụ!
Tôi có đại ngôn không khi
cho rằng vụ án này có một không hai trên thế giới từ
xưa đến nay? Thật vậy, ông quan tòa độc diễn vụ án,
tôi tin trăm phần trăm không ăn hối lộ bên nguyên cũng
như bên bị và cũng hết sức công tâm. Thế mà ông cho
ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Bên nguyên,
bên bị đều hân hoan, phấn khởi. Ông quan tòa có lúc đa
tình, những đã nhanh chóng nhường chỗ cho tình yêu chân
thật. Một bị cáo đáng thương trở thành một cô dâu
sáng giá.
Nguyễn Thanh Xuân
nhuxuan29@gmail.com
No comments:
Post a Comment