Nhà thơ Lê Phước Sinh
bên cạnh tàng xanh, nụ nấm nở hương nồng
những nàng Tiên mười tám, mười sáu
giọng ngọt ngào:
- Cà Phê, mời Anh...
Lê Phước Sinh
TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Nhà thơ Lê Phước Sinh
TRĂNG MÀU MẬN CHÍN
Nguyễn Đức Tùng
Năm ấy cô mười tám tuổi, tốt nghiệp trung học, vừa thi xong kỳ thi tuyển vào trường cao đẳng. Cô mới đến Canada năm năm, từ trại tị nạn. Cô đến trường ban ngày, ban đêm làm việc ở Mac Donald, đôi khi tiệm ăn khác. Cuối tuần cô đi lau dọn nhà cho cô giáo chủ nhiệm kiếm thêm tiền. Cô buồn ngủ suốt ngày. Những khi không đến trường, không làm việc, cô ngủ bù trong cái phòng nhỏ của mình, chật chội, ẩm, tối. Cửa sổ phòng cô nằm ngang mặt đất, nhìn ra thấy bụi cỏ xanh tốt, đôi khi một con dế dương râu nhìn cô chằm chặp. Nhưng cô nằm mơ những giấc mơ đẹp, ngoài cửa sổ hoa lê trắng, lựu đỏ, hoa anh đào hồng mọc lấm tấm. Cô thức dậy khi nghe tiếng chuột chạy. Nhà vắng, cô lục thức ăn nguội trong bếp, ngồi ăn một mình, xong thu dọn hành lý vào cái ba lô, như kiểu người ta đi hiking. Cô gặp ba cô ở cửa, ông vừa đi làm về. Đi đâu, con gái Suzanne? Con đi chơi với chúng bạn. Cô nói dối. Cô rất sợ ba cô, một người đàn ông hiền hậu nhưng nóng tính, sáu năm trong trại cải tạo biến ông thành một người khác, ít nói, rầu rĩ, cáu gắt. Ông cấm cô có bạn trai quá sớm, cấm đi chơi về khuya. Cô không bao giờ dám tâm sự với ông. Cô sẽ đi về Sakatoon bằng chuyến xe buýt đường dài, sẽ ở lại ba hay bốn đêm ở đó, trong nhà một đứa bạn gái. Để làm gì? Cô không biết rõ lắm. Cô có một giấc mộng, một kế hoạch làm giàu. Cô muốn các em cô được ở nhà sang trọng, mẹ cô không phải đi làm trong hãng may với bàn tay đau nhức, lẩy bẩy, tối nào cũng bắt cô xoa bóp. Trong khi ở đây mùa hè, chim chóc hót líu lo, thì ở phía bắc Saskatchewan, trời trở lạnh. Chuyến xe buýt chạy đơn độc trên đường, về chiều tuyết bỗng xuống mịt mù, cô nhìn thấy trên ngọn đồi, dưới thung lũng, những con chó sói đầu tiên trong đời. Những con báo hoa. Mèo rừng. Những con coyotes. Những cánh đồng lúa mì đã gặt, đồng cỏ “hay” trồng cho ngựa ăn, loại cỏ cuộn thành bó tròn lăn trên mặt đất lấm tấm hạt tuyết trắng như hoa cúc. Liệu cô có thi hỏng kỳ thi vừa qua không.
Cô không biết. Cô học kém môn toán, sinh vật, khoa học, tiếng Pháp, tóm lại môn nào cô cũng lơ mơ vì vào học ngang giữa chừng, không hề chuẩn bị, sau mấy năm bỏ học trong trại tị nạn, từ năm chín tuổi. Trong khi tụi bạn có đủ thức ăn, quần áo, nghỉ ngơi, giải trí, sự hướng dẫn, xe đưa đón, thì cô không có gì cả. Cô đi xe buýt mỗi ngày mất hai giờ từ nhà đến trường, trường về nhà. Không có đủ sách vở. Không có giờ để ngủ. Người ốm yếu. Nhưng giọng nói của cô trong veo như nước suối trong bình pha lê đặt ngay ngắn giữa bàn trong nhà cô giáo chủ nhiệm. Đi học trong mùa đông lạnh giá cô chỉ có một cái áo khoác mỏng màu xám, ngồi trong lớp cũng mặc y vậy. Cô giáo bảo: Suzanne, em làm sao thế, cởi áo ngoài ra chứ. Nhưng cô không cởi được, vì lạnh. Cha mẹ cô là người tị nạn, không nhận tiền trợ cấp chính phủ, các em còn nhỏ, đứa nhỏ nhất bảy tuổi, đứa lớn mười ba, ba đứa con trai, không giúp được việc gì, cô phải làm thêm để phụ mẹ. Cô không nghĩ rằng cô sẽ thành công bằng đường học vấn, nhưng cô tin cô sẽ thành công một cách nào đó, ngày mai, hay tháng sau, hay năm sau. Cô sẽ kết thúc lớp mười hai, nhận bằng tốt nghiệp. Cô đã để dành đủ tiền may bộ quần áo mặc trong lễ ra trường. Tháng trước ba cô dẫn cô đi chụp một tấm hình thật đẹp, mang áo choàng, mũ, khăn, một thiếu nữ xinh xắn như thể vừa tốt nghiệp từ một trường danh tiếng, Harvard chẳng hạn. Khi đi học cô chỉ vừa đủ điểm để thi đỗ các môn. Cô mơ ước làm y tá nhưng biết không đủ sức, cô sẽ cố gắng vào học một trường cao đẳng cộng đồng, rồi sẽ bỏ học giữa chừng vì đuối sức trước khi bị đuổi học, sẽ ghi danh học một lớp đánh máy, sẽ xin làm một chân thư ký ở các văn phòng địa ốc hay luật sư, và để đủ tiền sinh hoạt, cô sẽ đi làm thêm buổi tối ở tiệm Mc Donald nhiều năm nữa, nơi cô được chủ tin tưởng, sẽ làm thêm giờ với lương tối thiểu nhưng cô sẽ bỏ việc một tiệm ăn khác, vì chỗ đó quá xa, người quản lý, một anh chàng Á châu đứng tuổi, giọng nói ngọt ngào, thích đề nghị chở cô về nhà buổi tối, thỉnh thoảng cho cô những món quà nhỏ, làm cô ngại. Trước khi nghỉ ở đó cô cần phải xem thử người ta có chịu tăng giờ ở Mc Donald không. Tiền thuê nhà đang lên tháng này, nhà sáu miệng ăn trong đó ba đứa trẻ, ba người lớn, ở một tầng hầm basement tối và ẩm, mẹ cô kêu đau nhức ở đầu gối, bây giờ lan ra cả khuỷu tay, bàn tay. Buổi tối bà kêu cô xức dầu nóng ở những khớp xương đau nhức. Cô cầm bàn tay của mẹ lên, bà mới năm mươi tuổi mà những khớp xương thứ nhất ở hai bàn tay của bà sưng lên và cong lại như móng vuốt của loài chim. Cô thương mẹ, muốn làm nhiều giờ.
Nhưng cuộc đời của cô còn ở phía trước, tình yêu đối với cuộc sống, sự mơ mộng không hề phân biệt người giàu kẻ nghèo, học sinh giỏi và bọn dốt nát như cô. Cô sẽ để dành tiền và thuê một căn phòng cao ráo sáng sủa, vì ở tầng hầm ẩm thấp mẹ cô ngày càng đau khớp. Cô sẽ mua bảo hiểm nhân thọ, loại rẻ nhất, và nếu dư dả hơn cô sẽ giúp mẹ mua bảo hiểm giáo dục cho các em. Rồi cô sẽ chơi stocks, đó là những năm mà chứng khoán đang lên trên thị trường. Rồi cô sẽ thắng vài vụ, thắng nữa, giàu lên trong một đêm, và trong khi chưa kịp ăn mừng, cô sẽ mất sạch sau một đêm, như tất cả những người khác. Nhưng cô không tự tử. Bây giờ thì cô đang ngồi trên xe buýt, hàng ghế sau cùng, ấm áp, dễ chịu, nghĩ đến tương lai trong khi ngoài trời tuyết rơi mù mịt, bầy quạ đậu đen cả một nhành cây, những con chó sói hú gào trên ngọn đồi giữa những cánh đồng phía bắc của tỉnh Sakatchewan. Cô ngủ gật. Giấc mơ dẫn người ta đi xa.
Cô thức dậy, bàng hoàng mở mắt thấy mọi người trên xe đang xếp hàng ra cửa gần hết. Xe đang dừng trên bến xe. Cô hoảng hốt lao xuống, cúi người kéo cái ba lô nặng trĩu của mình từ gầm xe. Xe vẫn nổ máy rì rầm làm cô nóng cả ruột. Cô nhìn quanh, thở phào nhẹ nhõm. Khi xe đã chạy, khi những người hành khách đã tản đi mọi nơi, cô tò mò đứng nhìn những tấm bảng chỉ đường, ngơ ngác. Cô tiến lại một người đang đứng chờ xe buýt ở phía bên kia đường. Người đàn bà da trắng mập mạp, vẻ mặt cáu kỉnh, chắc có điều gì buồn bực. Bà ta khẳng định với cô rằng cô đã lo sợ đúng, tức là cái chỗ cô định xuống không phải ở đây. Quá sớm, bà ta bảo thế. Cô xuống quá sớm, chưa vào đến trạm xe buýt trong thành phố mà cô cần đến. Từ đây đến đó bao xa? Ba giờ lái xe. Cô kinh hãi.
Cô nhìn trời bầu trời xám, tuyết mỏng đã ngừng rơi nhưng mây bay qua lớp lớp, mây màu bạc, mây màu chì cuồn cuộn như sóng, như nỗi lo âu của kẻ xa nhà. Cô ra đường, đứng sát lề để cho người lái xe dễ thấy, ngoắt tay lia lịa, cô vẫn thấy những cô gái chàng trai làm thế trên đường cao tốc. Bà già lúc nãy, hóa ra là người tử tế đi ngang qua, ghé tới gần cô, bảo cô muốn đón xe quá giang phải không, vậy thì phải đi ra chỗ kia kìa, cạnh đường cao tốc, trong này là đường hẻm ai mà đón, hở con bé nhóc tì. Cô nhớ ra, cám ơn rối rít. Xốc cái ba lô trên vai chạy về phía đường lớn có những đoàn xe đang chạy. Cô vẫy mỏi cả tay không xe nào dừng lại. Con người ngày càng bớt tử tế, cô nghĩ, nhớ lại rằng mới cách đây dăm năm khi mới đến, cô thấy người ta đón xe dễ dàng trên đường, thế mà nay cô đứng cả tiếng đồng hồ không người nào ngó tới. Chỗ cô đứng ngay ở vòng cua gấp, xe chạy nhanh, ít người chịu khó dừng lại. Cô sẽ thất bại một lần nữa, như đã từng thất bại trong môn toán, môn hóa học, môn sinh vật, tiếng Pháp.
Thế rồi anh đến. Trong chiếc xe Honda Prestige cũ, màu đỏ hai cửa, kiểu thể thao, hai ngọn đèn trước có cái chụp như cái mũ, khi bạn bật đèn thì nó mở ra khi bạn tắt đèn thì nó sập lại, tuy vậy đôi khi nó làm ngược lại, bạn bật đèn mà đường tối thui. Anh thắng gấp, vì nhìn thấy cô muộn, bánh xe trước siết lên mặt lộ, kêu khẽ. Xe anh đỗ sát lề đường, các xe tải lớn chạy qua vun vút thổi mát cả mặt. Anh mở cửa. Khi cô lí nhí cám ơn thì anh không trả lời, chỉ khẽ gật đầu. Cô thấy anh có vẻ đáng ghét, khinh khỉnh, lạnh lẽo. Thực ra anh đang mải nhìn đường, lúc ấy đã tối, xe tải chạy gấp quá, rầm rập, nguy hiểm, phải một lúc sau anh mới ra được hòa vào dòng xe cộ. Cô ngồi im thin thít, cái túi xách như ba lô kẹp giữa hai đùi, lòng lo lắng đủ thứ. Cô không nhìn mặt anh, chỉ đoán đó là một chàng trai lớn hơn cô nhiều tuổi, mười hoặc mười lăm tuổi, tức là ngoài ba mươi, mặt rắn rỏi, cái nhìn trầm tư. Người cao nhỏng, mặc chiếc áo khoác ngắn, loại không thấm nước. Anh mở nhạc. Lần đầu tiên sau nhiều năm cô nghe lại một băng nhạc cũ. Tiếng người ca sĩ ngân nga trong khoảng không gian mờ tối, hẹp, ấm, của chiếc xe nhỏ. Anh có lẽ là người thích nghe nhạc, nhịp tay nhè nhẹ lên vô lăng. Anh huýt sáo theo bản nhạc.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở. Một lúc sau anh đổi ý, gợi chuyện. Họ chuyện trò về mọi thứ. Anh học đại học bỏ ngang giữa chừng vì chuyện cá nhân. Chắc lại chuyện thất tình, cô nghĩ, không nói ra, tự cười trong lòng. Anh bỏ học từ Edmonton về đây làm việc trong một nhà máy, đã mấy năm. Có thể anh sẽ đi học trở lại. Trước khi cô xuống xe, anh tự xưng tên mình và kịp hỏi tên cô. Cô mỉm cười không nhắc lại cái tên ấy của anh, nhưng cô ghi nhớ. Anh muốn học làm kỹ sư nông nghiệp. Saskatoon là một trung tâm nông nghiệp. Cô vừa thi xong tốt nghiệp trung học. Anh đưa cho cô một thỏi kẹo sô cô la, có lẽ còn sót lại duy nhất trong cái túi vải sau khi anh lục lọi hồi lâu. Thời ấy xe hơi còn xài băng cát xét. Anh vừa lái xe vừa nhờ cô tìm cho anh một bài hát mà anh muốn nghe. Cô tìm được bài hát ấy, họ cùng nghe. Cô vừa đi học đi làm. Có ba đứa em trai nhỏ nghịch ngợm. Cái phòng ngủ của cô có con dế ngoài cửa. Đó là tất cả những gì họ trao đổi với nhau.
Đột nhiên cô cảm thấy cô yêu anh.
Không, không phải cô cảm thấy thế. Không phải cô nghĩ thế. Mà cô quyết định thế. Khi người ta còn trẻ, ai cần lý do? Cô chưa từng hỏi anh có vợ chưa. Cô chưa từng hỏi anh bao nhiêu tuổi, tương lai của anh ra sao, anh đã từng theo học trung học ở đây như cô chưa, anh có chơi stocks không. Cô chưa từng hỏi anh có thi hỏng như cô không. Cô chưa từng hỏi anh sẽ thành công hay sẽ thất bại. Ngoài trời tuyết đã tạnh, trên mặt đường vẫn còn những vũng nước đang tan. Anh dừng lại bên đường đổ xăng. Cô đứng từ xa nhìn anh. Cô nhìn bàn tay thanh mảnh của anh cầm cái vòi đổ xăng. Nhìn cái dáng anh từ phía sau lưng. Cái dáng nhanh nhẹn nhưng buồn rầu, tội nghiệp, cô độc. Cô biết anh là người thông minh, nhưng bướng bỉnh, không phải loại người hay gặp được may mắn. Anh vào bên trong tính tiền, khi bước ra, tới gần xe sắp mở cửa, anh đứng sững lại, nhìn lên trời. Thấy cô ngạc nhiên, anh chỉ tay cho cô nhìn theo. Trăng lên. Sau những đợt mưa tuyết ngắn rơi bất chợt, rồi dừng ngay, bầu trời trong và ấm ngay trở lại. Mùa gặt hái sắp bắt đầu. Mùa dâu, strawberries, mùa lê, táo, nho. Trăng tròn, sáng rực, màu vàng đậm ngả sang đỏ, như màu mận chín, nằm ngay trên đỉnh núi. Anh bảo cô, ở đây vùng đồng cỏ người ta gọi trăng rằm mùa này là harvest moon, từ tháng tám đến tháng mười, trăng mùa gặt hái.
Bây giờ cô đứng đó. Không phải trạm đổ xăng. Trên một bãi đậu xe rộng rãi, tấp nập, vây quanh là shopping malls, trong ánh điện sáng. Cô đứng sững lại vì nhìn thấy anh. Cô nhìn thấy cái má của anh hóp vào, nơi ngày trước hình như là lúm đồng tiền, mái tóc điểm bạc, chiếc cổ cao, gầy, mặc một cái áo khoác xám. Cô thấy anh đang đi tới. Khuôn mặt anh đã già đi, đã khác đi nhiều, nếu đó chính là anh. Má bên phải có sợi râu dài. Cô ngờ ngợ, không tin vào mắt mình. Cho đến khi anh mỉm cười nhìn thẳng vào mắt cô. Cô tưởng anh nhận ra cô, nhưng không phải, anh mỉm cười với một người nào đó phía sau lưng cô, anh đi lướt qua, rõ ràng không chú ý đến cô. Ngày trước cũng vậy, sau khi lên xe phải nhiều phút sau, khi xe cộ vắng trên đường, anh mới thong thả liếc nhìn cô, không phải liếc nhìn, mà cái nhìn chăm chú, rõ ràng. Tôi đang nhìn cô. Anh muốn nói thế, hay cô nghĩ thế. Bỗng người đàn ông quay lại. Suzanne. Anh ta reo lên. Tim đập rộn ràng, cô cố trấn tĩnh, từ từ quay lại. Nước mắt cô ứa ra.
Tất nhiên đó chỉ là sự tưởng tượng của cô. Anh không reo lên như vậy. Anh chưa bao giờ reo lên như vậy với cô. Trong đêm đầu tiên ngủ chung phòng với đứa bạn ở Saskatoon, họ quen thân nhau từ khi còn ở trại tị nạn, cô kể lại câu chuyện hồi chiều, cố tỏ ra tình cờ, không quá hào hứng. Cô bạn vừa ngáp vừa nghe chuyện, ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo: ở đây ai cũng thế. Có lẽ cô ta muốn nói ai cũng sẵn sàng làm cái việc tử tế bình thường như thế cả, hay có ý gì khác nữa thì cô không biết. Cô muốn cãi lại rằng tử tế và tình yêu là hai thứ khác nhau, nhưng cô im lặng, quấn cái chăn chặt, cố dỗ giấc ngủ. Lúc này đây trên đầu cô, như sau một mùa đông dài, bầu trời sáng lên trước khi tối hẳn. Phía đường chân trời, cô nhìn thấy mặt trăng, từ từ sáng lên, tròn, to, đỏ sẫm. Vầng trăng gặt hái. Hay là vầng trăng ấy không có thực? Vì nó đỏ quá, như một giấc mơ. Vì vậy nếu người đàn ông ấy quay lại và hỏi: xin lỗi, tên cô là gì? Cô sẽ im lặng.
Cô đã từng im lặng khi thi hỏng kỳ thi vào cao đẳng ấy. Cô đã từng im lặng khi ba cô chặn cô ở cửa tát một cái như trời giáng và hỏi: mày đi đâu trong ba ngày qua, đồ con gái hư. Cô sẽ im lặng như khi người quản lý nhà hàng yêu cầu cô ở lại làm thêm giờ đến nửa đêm, nhưng không trả tiền lương overtime cho cô. Hắn chưa bao giờ. Cô đã từng im lặng khi mất sạch tiền trong saving account vào trò chơi chứng khoán năm cô mười chín tuổi, với hy vọng sớm có tiền thuê một căn gác sạch sẽ hơn tầng hầm basement nhìn ra bụi cỏ cao có con dế vuốt râu trầm tư.
Bây giờ anh quay lại hỏi: xin lỗi, có phải tên cô là Suzanne không?
Không. Cô sẽ trả lời người ấy. Xin lỗi, tôi không phải là Suzanne.
Nguyễn Đức Tùng
TỨ PHỦ CÔNG ĐỒNG
*
Trong dân gian Việt Nam thờ phổ biến nhất là "Tứ phủ công đồng" (chư linh của bốn miền trụ: Trời, Rừng, Nước, Đất), với trung tâm là "Tam Tòa Thánh Mẫu".
Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất nhưng lại hoá thân thành tam vị, tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Tam tòa là bộ tượng các Thánh Mẫu trong các đền thuộc tín ngưỡng Tứ Phủ và thường được đặt ở nơi thâm nghiêm, sâu nhất (hậu cung có cửa ngăn).
Các Mẫu trở thành một hợp thể thần linh hỗ trợ cho cuộc sống đời thường.
Trong điện thần Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện khá muộn (vào thời hậu Lê - khoảng thế kỷ XVI) nhưng nhanh chóng trở thành vị thần chủ của Đạo Mẫu (Đạo Nội) và được tôn vinh cao hơn tất cả các Thánh Mẫu khác.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa là thiên thần (tiên) vừa là nhân thân với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con, chu du khắp nơi trừ ác, diệt bạo, ban lộc khiến cho người đời vừa sợ, vừa trọng.
Mẫu Liễu Hạnh với tư cách là Mẫu Thượng Thiên luôn được thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ. Dân gian cho rằng Mẫu Liễu còn có thể hoá thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi. Mẫu Liễu Hạnh còn hoá thân thành Địa Tiên Thánh Mẫu - bà mẹ đất, cai quản mọi đất đai và đời sống của các sinh vật.
Cấu trúc thờ tự của Tứ Phủ rất phong phú, với nhiều ban thờ, nhiều tượng thờ, thể hiện tinh thần hoà đồng tôn giáo.
Cấu trúc thờ tự đơn giản nhất ở phủ bao gồm các ban thờ sau:
1. Hậu cung:
Là nơi thâm nghiêm nhất đặt bàn thờ Mẫu, thường là "Tam tòa Thánh Mẫu" bao gồm:
- Một tượng Mẫu ở vị trí cao nhất, toạ ở vị trí chính giữa, thường mặc áo màu đỏ (có nơi dùng sắc phục màu vàng). Đó là tượng bà Chúa Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
- Ở bên trái thấp hơn tương ứng là Mẫu Đệ Nhị, có sắc phục màu xanh, đó là Mẫu Thoải.
- Phía bên phải thấp hơn tương ứng là Mẫu Đệ Tam, có sắc phục màu xanh, đó là Mẫu Thượng Ngàn.
2. Phía trước hậu cung là một ban thờ lớn:
Gồm 3 lớp thờ tự (tính từ trong ra ngoài).
- Lớp thứ nhất gồm: Vua cha Ngọc Hoàng ở chính giữa, bên trái là Bắc Đẩu, bên phải là Nam Tào.
- Lớp thứ hai gồm: Năm vị quan lớn gọi là Ngũ vị Thái tử.
* Đệ Nhất: Áo đỏ - Quan Thượng Thiên.
* Đệ Nhị: Áo xanh - Quan Giám Sát
* Đệ Tam: Áo trắng - Quan Thuỷ Phủ.
* Đệ Tứ: Áo vàng - Quan Khâm Sai.
* Đệ Ngũ: Áo đen (đôi khi áo màu tím, lam) - Quan Tuần Tranh.
Năm màu áo này tượng trưng cho năm màu của Ngũ hành: Kim (trắng), Mộc (xanh), Thuỷ (đen), Hoả (đỏ), Thổ (vàng).
3. Hai bên tả hữu của ban thờ lớn:
Bên trái là Động Sơn Trang. Bên phải là ban thờ Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn). Chính giữa lớp thứ hai và thứ ba là hai dãy đồ tự khí ở 2 bên (bát bửu, tàm lọng).
Tiếp theo hai lớp trên, ở giữa là bát hương to, bên trái là thờ ông Hoàng Bảy, bên phải là thờ ông Hoàng Bơ.
Ngoài cùng ban thờ giữa phủ là 1 hương án.
4. Ngoài cùng:
Là những ban thờ Thần Hoàng, Thổ Địa, Thủ Đền tại vị, ban thờ Cô, Cậu...
Cũng có phủ đặt ban thờ ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười bên trái, và ban thờ cô Ba, cô Chín bên phải ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu ở trong hậu cung, nhưng nhìn chung thì đa số các phủ có cấu trúc thờ tự như trên.
(trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT,
Đặng Xuân Xuyến ; Văn Hóa Thông Tin ; 2006)
XUÂN VỀ
Lê Hứa Huyền Trân
Đưa tay với nắng bên thềm
Trong ấm áp vẽ một miền trời xuân
Mây buồn thả dáng bâng khuâng
Đôi én liệng báo xuân tuân mệnh trời
Thuyền ba căng gió ra khơi
Đem no đủ thả vào đời của con
Bàn chân con bé lon ton
Đi theo mẹ đã lấp non mở đường
Xuân về gạt hết mù sương
Ai đốt pháo nổ đầy đường rền vang
Người quên khoảnh khắc lìa tan
Vui sum họp đem phát ban mọi nhà
Xuân về ta khoác cho ta
Manh áo mới cũng gọi là chơi xuân
Vòng tay đi với tình nhân
Nghe trong tết tiếng bước chân rộn ràng
Tác giả : Lê Hứa Huyền Trân
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định
Phongtruongtu201@gmail.com
HOA BẰNG LĂNG TÍM BIẾC
Sân trường cũ, nhiều hoa bằng lăng lắm, mỗi dạo mùa hè là những nhánh bằng lăng lại phủ một màu tím ngây ngô nhẹ nhàng đằm thắm. Và mỗi lần nhớ đến anh, nó lại thẫn thờ nhớ màu hoa tím ngăn ngắt ấy, nhớ đến xao lòng.
“Xưa cứ trách bằng lăng tím đâu đâu
Giờ mới thấy hoa có màu nỗi nhớ….”
Trái tim nó đã trôi qua bao nhiêu mùa hè, bước chân sấp ngửa qua bao mùa bằng lăng chớm nở chớm tàn, vậy mà bóng hình anh, vẫn chưa tan. Đâu đó, đôi lúc vội vã lướt qua một đoạn đường, thấy hoa bằng lăng tím ngắt, nó vẫn giật mình, tưởng như mình vừa chạm vào quá khứ, chạm vào nỗi nhớ anh. Lại nghe gió trở mùa…
Ngày xưa, anh hay véo mũi một con bé ngốc nghếch, chỉ vì nó hay lang thang nhặt hoa rơi, nhặt lá rụng. Anh hay mắng nó: “Sao mà em ngốc thế hay là em giả vờ ngốc?”. Nó cũng đâu có vừa, nhe răng làm trò khỉ trêu lại anh, còn bảo: “Vì anh thông minh quá, giành hết phần, nên em chỉ có thể ngốc thôi”.
Nó sung sướng tự cho mình cái quyền được ngốc, mỗi khi bên anh. Anh ơi, máy tính em bị hư rồi, anh nhớ sửa dùm em đấy nhá. Anh ơi, cái bài toán này khó hiểu như quỷ ấy, anh giảng em với? Anh ơi, mai anh rảnh không? Anh chẳng bao giờ than thở hay từ chối nó cả. Nhiều lúc nó cứ tủm tỉm cười, tự dưng lại có một ông “anh Hai” trời ban cho nó để đày đọa và ăn hiếp, nó thật sướng như tiên.
Nhưng tiên rồi cũng có ngày muốn trở lại làm người phàm.
Anh ngỏ lòng mình anh yêu nó. Nó và anh nếm trải nụ hôn đầu tiên vụng về, có tán cây bằng lăng làm đồng lõa.
Nó hỏi anh: anh có biết sự tích hoa bằng lăng không?
Không.
Vậy thì em kể cho anh nghe nhé.
Nó tựa đầu vào vai anh, kể câu chuyện mười hai nàng công chúa của Ngọc Hoàng được vua cha cho làm nữ hoàng của các loài hoa dưới trần. Công chúa Út chính là nữ hoàng của loài hoa bằng lăng tím, vì nàng rất thích màu tím thơ ngây. Nàng có một mối tình với chàng thư sinh nghèo dưới trần gian, nhưng vua cha không chấp nhận. Nàng vẫn thủy chung, si tình, nhớ nhung, mãi mãi không quên được.
Vậy sau này, anh và em, có mãi mãi yêu thương nhau không? Em sợ, người ta nói tình đầu thường hay tan vỡ.
Nó dụi đầu vào vai anh, khe khẽ hỏi.
Anh sẽ mãi yêu em, ngốc ạ.
Anh vòng tay ôm nó vào lòng, và khẽ cài lên tóc nó, cành hoa bằng lăng tím biếc.
Sau này chúng ta sẽ lấy nhau, anh sẽ cài hoa cưới cho em, anh sẽ kết cho em một vòng hoa bằng lăng tím thật đẹp.
Cuộc đời xô đẩy, đã làm nó và anh lạc mất nhau trên đường đời. Chỉ còn lại một màu hoa ngăn ngắt mỗi mùa hè vẫn nở, tím hoài kỷ niệm.
Có ai cài hoa tím
Đi qua những con đường
Có ai nhặt kỷ niệm
Nhớ một trời yêu thương.
Góc trường xưa lối nhỏ
Bước chân qua ngập ngừng
Ơi loài hoa cánh mỏng
Có biết người rưng rưng?
Có ai cài hoa tím
Nghe gió rơi lưng chừng
Chân đi chiều trở nắng
Lòng rảo buồn quanh quanh.
Thương một đóa bằng lăng
Nở xòe bung sắc thắm
Thương cuộc tình xa vắng
Đã trôi về nơi nao…
Tiểu Yên. 11/09/2016.
1 Trăm năm trong cõi người ta,2 Chữ tài chữ sắc khéo là cợt nhau𤾓𢆥𥪝𡎝𠊛些𡦂才𡦂色窖僥(Truyện Kiều - bản Duy Minh Thị 1872)
1 Trăm năm trong cõi người ta,2 Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau𤾓𢆥𥪞揆𠊛些𡦂才𡦂命窖恄饒(Truyện Kiều – bản Tự Đức 1870, Liễu Văn Ðường 1871)