Tác giả Hoàng Đằng
TÌM HIỂU MỘT
VÀI DANH XƯNG SÓT LẠI
TRONG CỘNG
ĐỒNG TỪ QUÁ KHỨ
Một người bạn vong niên của tôi trên 60 tuổi tới thăm. Chuyện
trò miên man, chuyện đưa đến công việc các vị bô lão trong làng xưa và nay, tự
dưng bạn ấy hỏi:
- Sao
người ta phải nói từ “xạ” trước tên ông ấy?
Tôi có lớn tuổi hơn, trải nghiệm nhiều hơn và chịu khó đọc sách
báo hàng ngày nhiều hơn bạn ấy; đối với tôi, những “kiến thức” loại đó là bình
thường, nhưng bạn tôi vẫn thắc mắc vì chưa hiểu.
Tôi đã có giải thích cho bạn ấy rồi; bây giờ, tôi nảy ra ý định
viết đôi dòng về một vài danh xưng sót lại từ quá khứ. Biết đâu những gì tôi
viết ra cũng có ích cho số bạn đọc nào đó!
Tôi chỉ gói gọn vào những danh xưng trong cộng đồng tôi sống và
xin nói rõ đây không phải là một bài biên khảo mà chỉ được xem như một bài tuỳ
bút.
Tôi xin bắt đầu:
- Ông
Xạ: xạ do từ “xã” mà ra, ông Xạ là người đứng đầu chính quyền một làng, còn
gọi là lý trưởng (lý: làng); trước đây làng gọi là xã – đơn vị hành chánh cơ
sở.
- Ông
Bộ: tức hương bộ - vị hương chức giữ sổ sách của một làng (xã), dưới quyền
ông Xạ (lý trưởng)
- Ông
Kiểm: tức là hương kiểm – vị hương chức giữ an ninh trật tự của làng, dưới
quyền ông Xạ (lý trưởng).
- Ông
Hội: tức là hội chủ, người được dân làng bầu lên để làm chủ tế trong các
dịp làng cúng tế, hội hè; danh xưng này không thuộc hệ thống chính quyền mà chỉ
là một danh xưng trong tín ngưỡng dân gian truyền thống.
- Ông
Diêu (hay Dao): tức là miễn diêu (hay miễn dao), danh xưng dành cho
những người trong cộng đồng được miễn nghĩa vụ tạp dịch; có được chức danh này
hoặc do bỏ tiền ra mua, hoặc do có công trạng đặc biệt với cộng đồng.
- Ông
Tổng: tức là cai tổng, người đứng đầu chính quyền một tổng. Một tổng có
nhiều xã (làng), một huyện (hay một phủ) có nhiều tổng.
- Ông
Huyện hay ông Phủ: tức là tri huyện hay tri phủ, người
đứng đầu chính quyền một huyện hay một phủ. Huyện và phủ đều trực thuộc tỉnh;
phủ hoặc có địa bàn rộng hơn huyện, hoặc đông dân hơn huyện, hoặc kinh tế phát
triển hơn huyện ... Vì vậy, tri phủ có phẩm trật và lương bổng lớn hơn tri
huyện. Một huyện hay một phủ có nhiều tổng.
- Ông
Đốc: danh xưng này có thể dùng chỉ một người có bằng bác sĩ y khoa
(docteur), có thể dùng chỉ vị quan coi việc học trong một tỉnh (đốc học), có
thể dùng chỉ một vị quan giám sát một công trình xây dựng lớn (đốc công).
- Ông
Binh: danh xưng dành cho những người có đi lính phục vụ cho Pháp trong Thế
Chiến I (1914 – 1918)
- Ông
Cai: danh xưng dành cho người đứng đầu một nhóm thợ trong một công trường
hay công xưởng hoặc là người đi lính có lên được chức hạ sĩ trước năm 1945.
- Ông
Đội: danh xưng dành cho những người đi lính có lên được chức trung sĩ trước
năm 1945.
- Ông
Quản: danh xưng dành cho những người đi lính có lên được chức thượng sĩ
trước năm 1945.
- Ông
Trợ: tức là trợ giáo, danh xưng dành cho những giáo viên dạy bậc sơ học
(cours enfantin, cours préparatoire, cours élémentaire – lớp 1, lớp 2, lớp 3
bây giờ) trong nền học chánh Pháp – Việt trước năm 1945.
- Ông
Khoá: tức là khoá sinh; danh xưng dành cho học trò ngày xưa theo Hán học đã
đỗ kỳ thi sát hạch hàng năm của quan Đốc Học (chức quan coi việc học trong một
tỉnh), được chứng nhận đủ điều kiện đi thi Hương. Thi Hương là kỳ thi tổ chức
thành nhiều cụm trên lãnh thổ quốc gia 3 năm một lần, trong khi thi tuyển khoá
sinh thì năm nào cũng tổ chức ở tỉnh; vì vậy, có khoá sinh đi thi Hương, có
khoá sinh không đi; ai đỗ khoá sinh mà có đi thi Hương, dù trúng hay trật, được
gọi là thí sinh.
- Ông
Tú: tức là Tú Tài, danh xưng dành cho những ai theo Hán Học có thi Hương,
được lấy vào hạng đỗ Tú Tài.
- Ông
Cử: tức Cử Nhân, danh xưng dành cho những ai theo Hán Học có thi Hương,
được lấy vào hạng đỗ Cử Nhân. Như vậy, Tú Tài và Cử Nhân có chương trình học
như nhau; nhưng hoặc do “học tài thi phận”, hoặc do trình độ tiếp thu hơn – kém
dẫn đến bài thi nhiều hay ít điểm, có người đỗ Tú Tài, có người đỗ Cử Nhân đó
thôi. Bây giờ thì khác rồi, từ Tú Tài (bậc trung học) qua Cử Nhân (bậc đại
học), sinh viên phải học chương trình cao hơn với thời gian thêm 4 năm.
- Ông
Nghè: danh xưng dành cho những ai theo Hán Học, sau khi đỗ Cử Nhân, tiếp
tục thi Hội (thi tập trung ở kinh đô) và thi Đình (thi trước điện vua, chỉ dành
cho những ai vừa trúng tuyển thi Hội). Vì sao gọi là ông Nghè? Theo học giả Chu
Thiên Hoàng Minh Giám (1904 - 1995), người đỗ tiến sĩ được gọi là Ông Nghè vì
người đỗ tiến sĩ, trước khi vào chầu vua, phải ngồi chờ ở mái hiên Hoàng Cung
mà mái hiên Hoàng Cung gọi là cái nghè. Ở một số làng quanh Đông Hà – quê tôi,
người đỗ Tú Tài vẫn gọi ông Nghè, tôi đoán mấy ông đó giàu có, uy quyền trong
làng, dân làng gọi vậy như một hình thức tâng bốc, nịnh bợ; cũng có thể người
ta gọi họ là ông Nghè vì ở địa phương, về học vấn không ai bằng họ nữa; cũng có
thể người ta muốn chế giễu thói cường hào ác bá của mấy ông ấy qua hình ảnh ông
nghè trong bài ca dao :
Em là con gái đồng trinh,
Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè.
Ông Nghè sai lính ra ve.
-Trăm lạy ông Nghè tôi đã có con.
-Có con thì mặc có con,
Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan.
- Ông
Cửu, ông Bát, ông Thất ...
danh xưng dành cho những người được ban phẩm hàm hoặc do bỏ tiền ra mua, hoặc
do có công trạng, hoặc do hưởng tập ấm, phong tặng của thân nhân làm quan. Xin
mở ngoặc: Tập ấm là cha làm quan có phẩm trật thì con cũng được cấp phẩm trật
làm quan, ví dụ triều Nguyễn (1802 – 1945), cha có phẩm trật Chính Nhất Phẩm,
con được tập ấm Tùng Lục Phẩm. Phong tặng là con làm quan thì cha mẹ, nếu còn
sống, được phong, nếu mất rồi, được tặng phẩm
trật, ví dụ dưới triều Nguyễn, cha mẹ được phong tặng phẩm trật chỉ thua người
con đương làm quan một trật, con làm quan Chánh Tam Phẩm thì cha mẹ được phong
tặng tùng tam phẩm ...
Đời xưa, chức tước phẩm hàm được trọng vọng lắm. Khi người có
chức tước phẩm hàm chết thì chức tước phẩm hàm được ghi vào lá triệu (minh
sinh) dẫn đầu đám đưa tang. Người có chức tước phẩm hàm có chỗ ngồi phân định
rõ ràng trong hội hè đình đám; tiếng nói của họ có trọng lượng đối với cộng
đồng. Họ còn được miễn nhiều khoản sưu dịch. Vì thế, ai cũng mong trong đời
sống có một chức tước phẩm hàm gì đó.
Trong một địa phương, người có chức tước phẩm hàm không nhiều,
thành thử có khi chỉ cần nói ra chức, tước, phẩm, hàm là người ta đã biết đó là
ai, khỏi cần nói tên; lại thêm, ngày xưa, xã hội có tập quán cữ tên. Hậu quả là
hiện thời ở nhiều làng, nhiều dòng họ, lúc trước có vị làm quan đến chức này,
chức nọ, nhưng không biết tên thật vị quan ấy là gì. Rối rắm chưa!
Có lẽ do thấy được khuyết điểm của người xưa và cũng do số lượng
người làm quan nhiều, để tránh nhầm, lộn, hiện thời sau chức tước, danh hiệu,
học hàm, học vị ... người ta ghi rõ tên họ người liên quan đi kèm, ví dụ:
UV/TƯĐ - Giáo Sư - Tiến Sĩ – Nhà Giáo Nhân Dân – Nghệ Sĩ Nhân Dân - Bộ Trưởng
Nguyễn Văn A, B ...
Hoàng Đằng
11/01/2017 (14/12/Bính Thân)
1 comment:
Cảm ơn anh Hoàng Đằng đã có một bài viết ngắn rất hay và có ích cho các bạn trẻ.
Tôi còn nhớ hồi tôi còn nhỏ (những năm 50,60 thế kỷ trước) ở quê tôi, mặc dù các chức danh không còn tồn tại trong hệ thống chính quyền ,giáo dục hoặc quân đội nhưng mọi người vẫn dùng các danh xưng với một số người trong địa phương :
Ở làng tôi thì có Ông Cửu Lệ,ông nội của anh Hoàng Kế. Ông nội tôi trước kia cũng được gọi là ông Cửu Minh do có hàm cửu phẩm.Cha của thầy Hoàng Lượng là Ông Xạ Quang,trước đó có làm lý trưởng. Cha của anh Hoàng Huy Bá là bác Hía, thường được gọi là Bộ Hía . Ở Đông Hà tôi biết hai bác Đội đó là bác Đội Ấm ,cha của Hồ Sĩ Dương là bạn đồng môn của tôi hồi học tiểu học và bác Đội Hào, cha của bạn Cẩm Hảo cũng là bạn thời trung học.Cha tôi cũng được gọi là Đội Dự do có thời gian ở trong quân đội Pháp,lính khố đỏ(tirailleurs indochinois/milicien à ceinture rouge) từ năm 1935 cho đến 1945 .Ở Quảng Trị thì có ông Trợ Triển ,cha của nhạc sĩ Duy Khánh, ông là một nhà giáo...
Một chút ký ức còn nhớ lại nhân đọc bài viết của Thầy Đằng,xin chia sẻ với các bạn đồng hương.
Post a Comment