Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, November 6, 2010

PHAN VĂN QUANG VÀ MAI THANH TỊNH- CHÙM THƠ THÁNG 10





PHAN VĂN QUANG
Tháng mười



Anh thầm hôn hương tóc một người
Tháng mười gọi mây hồng đứng lặng
Vụng về dấu tay mềm em nắm
Trái tim lãng đãng - tháng mười ơi


Tháng mười ư - con nước đầy vơi
Tháng mười nhỉ - hồn vừa ngợp gió
Tháng mười đi - đòi người phải nhớ
Quay quắt bằng được - tháng mười yêu


Tháng mười em - mây gió nương chiều
Anh ngữa mặt phơi lòng giữa nắng
Tháng mười cho tình yêu thầm lặng
Tựa cỏ anh nằm mở mắt - say.



MAI THANH TỊNH
Tháng mười


Tháng mười gõ cửa mùa sang
Đêm se se gió, ngày lang thang chờ

Người về tắm gội giấc mơ

Ngỡ ngàng chao sóng nửa bờ thực hư

Thuyền thơ nặng trĩu tương tư

Xuôi theo miền nhớ -lá ru khẽ khàng

Chòng chành lạc giấc mơ hoang

Đê mê môi cháy vội vàng tình xa

Thôi em đừng trách hờn ta

Tỉnh mê lãng đãng du ca trời đày

Nửa đời èo uột cơn say

Chút tình vá víu vòng tay hẹn hò...
READ MORE - PHAN VĂN QUANG VÀ MAI THANH TỊNH- CHÙM THƠ THÁNG 10

Friday, November 5, 2010

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - VỀ THĂM LẠI BÀ MẸ GIO LINH

Sông Cửa Tùng ở Gio linh. Ảnh từ vi.wikipedia.org




Đối với tôi, cái tin Phạm Duy trở về nước sống là một tin đầy xúc động. Hồi gặp anh vội vã ở Paris (Pháp), tôi đã được nghe anh tiết lộ về cái khả năng "hứng bất tử" này, và không quan tâm mấy vì nó hoàn toàn viển vông. Nhưng bây giờ, anh đã lặng lẽ làm việc với các "cửa ải thủ tục" để được phép trở về nước.
Trở về làng Phượng Dục để xây lại cổng làng và hoàn chỉnh gia phả sau thế hệ nhà văn Phạm Duy Tốn. Ấy mới biết, dù lạc loài đến mấy thì điều làm cho người ta suy nghĩ đến đầu tiên, chính là hai chữ "nguồn cội". Hồi ấy, nghe tin tôi làm việc ở Quảng Trị, anh có hẹn sẽ đi với tôi về Gio Linh. Tôi đã nhất trí như vậy, nhưng hoàn cảnh nay đã khác. Tôi báo anh, qua máy: “Anh cứ tìm đến tòa soạn Tạp chí Cửa Việt ở thị xã Đông Hà, rồi nhờ một phóng viên đưa anh về Gio Linh. Anh cứ yên tâm, bà con trong làng sẽ rất vui mừng được đón tiếp tác giả Bà mẹ Gio Linh”.
Thật bất ngờ, vào một buổi sáng đẹp trời, một người đàn ông dáng cao to, tóc trắng như cước xuất hiện trước cửa phòng tôi và đó chính là nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi nhìn lướt qua anh, thấy anh chẳng thay đổi gì so với mấy chục năm trước sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm, thuở anh về hát Tình ca cùng với một người đàn bà Mỹ nói tiếng Việt khá sành sõi và dĩ nhiên là khá đẹp. Và giữa hai chúng tôi đã có một cuộc chiến làm rung chuyển thế giới. Tôi không nhấc chân đi được, chỉ biết ngồi trên xe lăn nhìn anh. Tôi rất yên tâm khi nhờ người phóng viên đã rành rẽ mọi nơi, mọi chuyện khắp địa bàn tỉnh Quảng Trị đưa anh đi. Người phóng viên lên xe dẫn đường cho anh Phạm Duy về làng Mai Xá. Giữa đường, anh Phạm Duy giải thích về huyền thoại Bà mẹ Gio Linh cho người dẫn đường nghe.
Hồi ấy, nhân một chuyến đi thực tế nông thôn ở Quảng Trị, anh có về công tác ở làng Mai Xá và sáng tác bài hát Bà mẹ Gio Linh trong một đêm, lúc nằm trên giường tre ở chiến khu. "Tôi làm xong tôi khóc. Tôi nhớ hoài, tôi khóc như một đứa con nít". Tiếng khóc ấy như một tiếng nấc uất nghẹn quanh quẩn trong lòng Phạm Duy trong những năm anh sống ở hải ngoại. Dù ăn món gì, dù đang uống ly rượu gì, chợt nghĩ đến Bà mẹ Gio Linh là anh thấy mất vui. "Người ta hay nói đến chữ ăn năn. Riêng mình, tôi thấy ái ngại sao ấy. Bởi vì nó dễ quá. Chỉ mong sao được về đến tận nơi các anh đã hy sinh, được đốt ba nén nhang và nghiêng mình trước mộ hai anh. Đó là việc mình phải làm sau cùng trong lần hồi hương này, để cuộc trở về này có ý nghĩa".
Xe vẫn chạy bon bon trên đường ra Mai Xá. Người bạn vẫn ngồi yên bên cạnh Phạm Duy, lần lượt kể cho anh nghe về ngôi làng huyền thoại.
Ai cũng biết Cửa Tùng là địa điểm của vua Duy Tân ra bàn với ông khóa Bảo về việc dấy nghĩa Cần Vương; vì thế địa bàn Gio Linh đây, có thể xem như cái nôi của Cần Vương. Sau chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, tiến sĩ Nguyễn Tự Đồng (dân hay gọi là ông Đốc Đồng) đánh trống tụ nghĩa tại làng Hà Thượng.
Tục truyền rằng khoảng năm 1925, Quảng Trị nổi danh với những vườn đào tụ nghĩa. Đó là vườn đào của ông Nguyễn Khoa Bảo ở Cam Lộ, vườn đào Linh Yên, Triệu Phong của cụ đề đốc Nguyễn Thành Đốc, về sau bị giặc Pháp xử trảm ở bãi bồi làng Nhan Biều; vườn đào Bồ Bản của cụ Ấm Muộn, vườn đào Bích Khê của cụ hoàng giáp Hoàng Hữu Bính và vườn đào Mai Xá, Gio Linh của tú tài Trương Quang Cung. Những vườn đào rậm rạp, lá cây che mắt giặc Pháp nên được các môn đệ phong trào Cần Vương lấy làm chỗ họp mặt bàn việc khởi nghĩa. Thuở ấy ở các vườn làng Mai Xá, có hàng loạt cây mai mùa xuân nở hoa vàng rực rỡ, từ đó có phong trào "mai vàng tụ nghĩa". Ấy là không khí náo nức chung của huyện Gio Linh trước ngày khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, đến nỗi Tỉnh ủy Quảng Trị năm 1949 có quyết định phong tặng Gio Linh danh hiệu "Huyện kháng chiến kiểu mẫu".
"Đấy là bối cảnh lịch sử để bài hát Bà mẹ Gio Linh ra đời. Bây giờ nói cụ thể về các liệt sĩ của bài hát, bác có muốn nghe không?" - người phóng viên hỏi.
Dĩ nhiên là anh Phạm Duy rất muốn biết, không phải như đầu đuôi một câu chuyện đã trở thành huyền thoại, mà như một mảnh đất nước ở "phía bên kia", mà từ lâu đã mờ khuất trước mắt anh, giống như một hình bóng của làng quê chìm đắm dưới làn khói mù của lửa đạn. "Nhờ chú cho tôi nghe kỹ đầu đuôi câu chuyện Bà mẹ Gio Linh" - nhạc sĩ Phạm Duy nói với người dẫn đường.
Nguyên khu vực này có hai làng cùng một gốc, là làng Mai Xá Chánh và Mai Xá Thị. Anh Nguyễn Đức Kỳ (xã đội trưởng) quê ở Mai Xá Thị; còn anh Nguyễn Phi (cán bộ bình dân học vụ xã) ở làng Mai Xá Chánh. Lính Pháp ở đồn Nhĩ Hạ bắt được hai anh ở ngoài đồng, đem hành quyết rồi cắt đầu găm vào đòn xóc, đem bêu ở bên đường, lấy dầu bi-dăng-tin bôi cho óng mượt, giả dạng đi phố. Trong khi đó, từ phía đình làng Mai Xá, tấp nập những bóng dáng của các bà mẹ Gio Linh cắp thúng mủng giả vờ đi chợ, nhưng thực ra là đi lấy đầu liệt sĩ làng Mai Xá. Ngày giặc Pháp chặt đầu hai liệt sĩ là 16.8.1948. Hồi ấy ở Quảng Trị, giặc Pháp có tục giết người rồi đem đi bêu đầu ở giữa chợ. Có một cậu phóng viên nhân một chuyến đi thực tế ở đồng bằng Triệu Phong muốn điều tra thực hư bài hát Bà mẹ Gio Linh. Kết quả thật bất ngờ, có đến hơn một trăm bà mẹ quê đều tự nhận mình là bản gốc của Bà mẹ Gio Linh.
Hồi đó, chị tôi đi buôn ở chợ Chùa, có bữa chị như lạc giọng, đốt mấy nén nhang và một nải chuối, lâm râm cúng lạy ở ngoài hiên. Chị bảo tôi rằng làm thế để cúng vong hồn những người chết oan và bị Tây chặt đầu cắm ở bên đường. Đó là dấu vết của bài hát Bà mẹ Gio Linh theo như tôi được biết, bài hát quả nhiên đầy sức sống: Cái chết đau thương của hai liệt sĩ không làm cho làng Mai Xá ngã quỵ mà nhân thành hàng trăm con người tự nguyện đứng lên bảo vệ làng quê dù phải phơi thây ở bên đường. Các nhà thơ dân gian mọc lên như hoa, ca ngợi cái hùng khí của "mai vàng tụ nghĩa": "Con mang theo dòng máu anh hùng - Sống chiến đấu, chết toàn danh tiết - Con ra đi hình hài tuấn kiệt - Con trở về có chiếc đầu thôi".
Các bà mẹ mang thúng đi lấy đầu con, đó là mẹ Lê Thị Cháu (còn gọi là Diêu Cháu) và bà Khương Thị Mén, thím của liệt sĩ Nguyễn Đức Kỳ; mẹ Hoàng Thị Sáng và bà Bùi Thị Con, thím của liệt sĩ Nguyễn Phi. Lấy được đầu về, các mẹ đã giấu ở trên tra, gần nóc nhà để tránh Tây lùng sục. Sau đó, đem chôn vào hai cái hộp vuông phù hợp với chiếc đầu. Lần đầu tiên người Việt Nam đem chôn người thân bằng một chiếc hộp vuông. Đầu anh Kỳ được chôn tại vùng Đôộng, Mai Xá Thị, đầu anh Phi được chôn tại nghĩa địa Cồn Dài.
Nhạc sĩ Phạm Duy bùi ngùi nghe lại đoạn băng ghi âm của gia đình ghi lại cuộc phỏng vấn anh và ca sĩ Thái Thanh của đài Pháp RFI thực hiện năm 2001. Thống thiết nhất là giọng của Thái Thanh: "Một bà mẹ bình thường, con cái đã là một gánh nặng lớn của mẹ rồi, huống chi lại phải mất con trong thời chiến tranh nữa. Cái bi kịch này nó ghê gớm quá. Lần nào hát Bà mẹ Gio Linh tôi cũng khóc".
Riêng với Phạm Duy, bi kịch Bà mẹ Gio Linh ngay từ đầu đã trở thành một ám ảnh nghệ thuật đeo bám lấy tâm hồn anh, nhất định "không buông tha" để tâm hồn anh đỡ bị giày vò. Chợt nhớ lại một đêm năm 1951, lúc bước chân qua Phát Diệm, Phạm Duy thấy mình mãi khóc bằng một giọt nước mắt lạ lùng, có khi giọt nước mắt ấy rơm rớm trong khóe mắt; hoặc tuôn dào dạt như muốn lấp đầy khoảng trống trong lồng ngực, không phải là người ngoài cuộc mà chỉ người trong cuộc mới biết. Đó là một khoảnh khắc vàng của một đời nghệ sĩ trong cuộc sống phong trần của anh.
Sự quay trở về lần này của Phạm Duy chính là hành động để anh tạ tội với Mẹ Việt Nam, để xin người cho "đi lại từ đầu". Ôi, Mẹ Việt Nam luôn bao dung và nghiêm nghị sẽ nhìn xuống mỉm cười trên mái tóc bạc trắng như cước của đứa con tài hoa, phung phá và nay biết hối lỗi, Mẹ Việt Nam sẽ chứng giám cho thành tâm của anh. Sách Yếu Lược Đông Pháp ngày xưa có nói đến một kẻ lãng du mãi đi tới trước mặt mình, tự nhiên đứng chân, đi ra khỏi cổng làng, băng qua những núi non, những đại dương, băng qua những quốc gia, những nền văn hóa, vẫn tiếp tục bước tới, tới nữa, tới mãi... Đến một lúc gần như "hết đất" để đi tới, người lữ khách dừng chân, nhìn lại, và ô kìa...! Chỗ đứng chân đầu tiên lại xuất hiện trước mắt anh. Người lữ hành là người luôn luôn quay lại trên vết chân của mình. Với Phạm Duy, vết chân đầu tiên để anh bước vào lịch sử chính là ngôi làng Mai Xá huyền thoại này và như vậy, anh là một Người Trở Về, vâng Come back Sorriento, "và sẽ thấy kiếp xưa bước nhẹ về"... "đi lại từ đầu". Như lời anh đã viết trong ca khúc Kỷ niệm mới đây.
Nãy giờ ham nói chuyện, người phóng viên mới để ý rằng mình đang đưa anh Phạm Duy đi băng qua ngõ làng Mai Xá, hướng đến một nền nhà cũ. Đó là nền nhà thời thơ ấu của anh Nguyễn Đức Kỳ, căn nhà đã biến mất từ lâu, nền nhà đã bị cày vỡ dùng để trồng trọt, con đường rộng lên ngã tư Sòng cũng băng qua đó. Nhạc sĩ Phạm Duy đứng yên, đốt mấy cây hương cắm lên nền nhà lẩm bẩm: "Đến rồi!" và lấy giọng hát bài Bà mẹ Gio Linh. Anh hát nghẹn ngào, giọng vang như mọi lần nhưng trầm hơn. Bà mẹ đứng cạnh anh úp nón trước ngực, cất tiếng thở dài. Đó là mẹ Diêu Cháu của anh Kỳ. Bài hát này in ở Huế, lời của nó được tác giả sửa lại nhưng thanh niên trong làng vẫn thuộc y nguyên lời đầu tiên:
...Nghẹn ngào không nói một câu
Mang khăn gói đi lấy đầu
Đường về thôn xóm buồn teo
Xa xa tiếng chuông chùa reo…
Bà mẹ Gio Linh tức mẹ Diêu Cháu, đứng bên cạnh Phạm Duy, nét mặt xúc động tràn trề, Phạm Duy ngoảnh mặt lại, cúi xuống nhìn mẹ, rồi bỗng nhiên buột miệng:
- Mẹ đẹp như một vị thánh.
Mẹ Diêu Cháu mắt hấp háy, da mặt hồng hào như thời con gái, dáng hơi bối rối. Nhạc sĩ Phạm Duy hát xong bài Bà mẹ Gio Linh, đứng nghiêm thẳng người, cây đàn guitar cũ chống ở trước bụng, trong tư thế của người chiến sĩ đứng chống gươm, mặc niệm trước đồng đội đã khuất.

16/11/2007
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Tuoitre.vn, Thứ Bảy, 09/02/2008
READ MORE - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - VỀ THĂM LẠI BÀ MẸ GIO LINH

Wednesday, November 3, 2010

LƯU KHÁNH THƠ - NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN : CẮT ĐỨT LÒNG ANH TRĂNG CỦA EM

Nhà thơ Chế Lan Viên. Ảnh: H.C


Chế Lan Viên là một hiện tượng độc đáo trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Năm 16 tuổi, quyển Điêu tàn của ông "đã đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị" (Hoài Thanh). Nhận xét ấy đúng đâu phải chỉ với tập thơ đầu tay, mà với cả sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Đặc biệt là với những tập Di cảo ra đời sau khi nhà thơ đã mất.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Chế Lan Viên gắn bó chặt chẽ với nhà văn Vũ Thị Thường, một cây bút truyện ngắn gần gũi với mảng đề tài nông thôn Việt Nam. Từ khi Chế Lan Viên qua đời, nhà văn Vũ Thị Thường đã coi việc sưu tầm, góp nhặt, tuyển chọn và xuất bản những di cảo thơ của ông là công việc quan trọng nhất của đời mình.

Cách đây nhiều năm, trong chương trình Điểm tựa tài năng, một chương trình rất có ý nghĩa, nhằm tôn vinh những người mẹ, người vợ của các bậc tài danh của đất nước do Nhà văn hoá Lao động và Báo Phụ nữ T.P HCM kết hợp tổ chức, bà Vũ Thị Thường đã khiến bao khán giả phải trào nước mắt vì xúc động, khi nghe bà kể lại những kỷ niệm trong đời sống thường ngày cũng như trong hoạt động sáng tạo của cặp vợ chồng nghệ sĩ này.

Tình yêu và lòng quý trọng đối với người chồng là một nhà thơ có tài đã giúp bà có thêm lòng quyết tâm và nghị lực khi bắt tay vào thực hiện công việc của mình. Ba tập Di cảo thơ ra đời có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó giúp cho nhiều thế hệ bạn đọc có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về một nhà thơ lớn của thời kỳ hiện đại.

Tuy vậy Chế Lan Viên còn có một cuộc đời khác. Hay nói chính xác hơn, cuộc đời ông còn có thời kỳ gắn bó với một người phụ nữ khác - là người vợ đầu của ông. Nhưng người ta ít nói đến vì một lẽ đơn giản là hai người đã chia tay nhau từ lâu. Mọi chuyện đã trở thành quá khứ.

Sau khi chia tay cả hai người đều đã có một gia đình khác, một cuộc sống khác. Nhưng chắc chắn rằng người phụ nữ ấy đã có thời là tất cả tình yêu của nhà thơ Chế Lan Viên. Và điều đáng nói hơn cả ở đây là cuộc chia tay của họ có một vẻ gì đó thật khác thường, được ghi dấu bằng một bài thơ tứ tuyệt chưa bao giờ được công bố.




Nhà thơ Chế Lan Viên (thứ 2 từ trái sang) cùng các nhà thơ Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn. Ảnh: A.T.

Từ nỗi đau của sự chia cắt và ly biệt, từ cảnh ngộ của riêng mình nhà thơ đã gửi gắm tình cảm của mình qua những câu thơ giản dị, chân thành mà trĩu nặng ưu tư. Để có thể hiểu rõ hơn hoàn cảnh ra đời của bài thơ, xin được nói đôi lời về người đàn bà đã từng đi qua đời nhà thơ Chế Lan Viên, vào những năm tháng trẻ trung, sôi nổi nhất.

Bà tên là Nguyễn Thị Giáo. Bà Giáo vốn là bạn đồng trang lứa và lại là người đồng hương Đà Nẵng với cha tôi - nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Cụ thân sinh ra bà là thầy giáo dạy cha và các chú tôi (Lưu Quý Thảo, Lưu Trùng Dương) ở một trường trung học tại thành phố Đà Nẵng những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Chế Lan Viên cũng có thời từng là học trò của cụ. Thời con gái, bà Giáo được nhiều chàng trai ở thành phố biển Đà Nẵng thầm yêu trộm nhớ, vì vẻ đẹp mặn mòi và nét duyên dáng của một cô tiểu thư khuê các. Nhưng bà đã nặng lòng với người thi sĩ mang họ Chàm từ khá sớm. Vượt qua nhiều khó khăn trở ngại từ phía gia đình, bà nhất quyết đi theo tiếng gọi của lòng mình.

Tháng 9 năm 1943, hai người tổ chức đám cưới. Khi đó Chế Lan Viên 23 tuổi và cô thiếu nữ Nguyễn Thị Giáo vừa tròn 18 tuổi. Cuộc sống hạnh phúc của ông bà kéo dài được 15 năm. Kết quả của tình yêu đó là ba người con, hai trai (Phan Lai Triều, Phan Trường Định) và một gái (Phan Thị Chấn Thanh) lần lượt ra đời.

Năm 1958, sau một chuyến đi chữa bệnh dài ngày ở Trung Quốc của nhà thơ Chế Lan Viên, gia đình ông gặp chuyện sóng gió. Khi thấy nguy cơ đổ vỡ của gia đình, Chế Lan Viên rất đau khổ và không hề muốn điều đó xảy ra. Ông sẵn lòng chấp nhận tất cả, sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện để giữ được tổ ấm của mình.

Tình yêu còn đến đâu thì chưa biết, nhưng chắc chắn ông thương các con của mình, khi đó đang còn bé dại cả. Nhưng có thể vì lòng tự ái hay vì một lí do riêng nào đó mà bà Giáo từ chối mọi lời đề nghị của Chế Lan Viên. Cuộc chia tay không thể nào tránh khỏi. Mọi lời khuyên can, hòa giải đều vô ích. Bạn bè văn nghệ sĩ và những người đồng hương đều tiếc cho hai ngưòi.

Ngày hai ông bà ra tòa chia tay nhau có mặt cha tôi. Ông đến dự phiên toà với tư cách là đại diện cơ quan (ngày đó ly hôn phải có đại diện cơ quan) và với tư cách là bạn lâu năm của cả hai người. Cha tôi kể lại rằng suốt buổi hôm đó Chế Lan Viên ngồi im lặng. Sau khi đã xong hết mọi thủ tục, trước khi ra về, ông mới lặng lẽ đứng lên và đọc bài thơ, thay cho lời nói cuối cùng.

Đến chỗ đông người anh biệt em

Quay đi thôi chớ để anh nhìn

Mày em trăng mới in ngần thật

Cắt đứt lòng anh trăng của em

Sự việc đó khiến mọi người vô cùng sửng sốt. Đúng là có một không hai.

Thông cảm với nỗi đau của ông, người ta càng thêm kính trọng nhân cách và lòng nhân hậu, vị tha của một thi sĩ tài năng. Nếu ai đã gặp bà Giáo, thì càng thấy cảm phục cái tài và cái tình của Chế Lan Viên. Nét nổi bật nhất trên gương mặt của bà Giáo là cặp lông mày hình vòng cung, cong như lá liễu.

Khi đã là một người đàn bà ở tuổi 80, đôi lông mày của bà vẫn còn nguyên nét mảnh mai, son trẻ như mảnh trăng đầu tháng. Ấn tượng mà bài thơ từ biệt của Chế Lan Viên để lại trong lòng cha tôi thật sâu đậm. Nhiều năm sau này ông vẫn còn kể về nó. Đặc biệt là sau những lần bà Giáo đến nhà thăm cha tôi, cùng với những người bạn đồng hương.

Nhiều năm tháng đã đi qua trong cuộc đời mỗi người. Nhà thơ Chế Lan Viên và bà Nguyễn Thị Giáo từ lâu đều đã có một gia đình khác, có những niềm hạnh phúc khác. Nhưng chắc rằng những tháng năm chung sống cùng nhà thơ Chế Lan Viên đã trở thành một phần đời không dễ nguôi quên đối với bà Giáo.

Trong một lần trò chuyện với anh Phan Lai Triều, con trai cả của nhà thơ và bà Giáo, tôi được biết rằng khi nhà thơ Chế Lan Viên đang đau nặng, nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy, bà Giáo đã yêu cầu anh đưa bà vào thăm. Nhưng để tránh sự xúc động quá lớn cho cả hai người, anh Triều đã khuyên mẹ không nên gặp lại cha mình khi cả hai đều đang đau yếu (lúc đó bà Giáo mới trải qua một cơn tai biến não).

Bà Giáo đã nghe theo lời con trai và ra về, chỉ nhờ anh chuyển đến Chế Lan Viên một chút quà. Hiện nay tuổi đã cao, sức yếu, bà sống với con tại TP HCM. Cách đây hơn nửa thế kỷ nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nói về Chế Lan Viên: "Con người này quả là người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được".

Tất nhiên chúng ta đều hiểu rằng nhận xét đó là để nói về thơ của ông. Nhưng chỉ qua một bài thơ tứ tuyệt được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy, chúng ta thấy lời khen ấy thật là xác đáng cả về tài năng cũng như tấm lòng của một thi sĩ mà tầm vóc đã vươn tới một chiều kích khác

Lưu Khánh Thơ

Nguồn: antgct.cand.com.vn



ĐỌC THÊM TRANG BÊN NGOÀI
CHẾ LAN VIÊN: 20 NĂM NHỚ LẠI
READ MORE - LƯU KHÁNH THƠ - NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN : CẮT ĐỨT LÒNG ANH TRĂNG CỦA EM

Tuesday, November 2, 2010

NGUYỄN HOÀN - LỄ BỘ THƯỢNG THƯ LÊ TRINH

Người tôn vua Duy Tân và cứu Phan Châu Trinh thoát khỏi án chém


Phủ phụ chánh triều vua Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ lễ), Hoàng thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng thư bộ công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ học)
(Hình và chú thích từ vi.wikipedia.org)


Quảng Trị là một miền quê có truyền thống khoa bảng, dưới thời phong kiến đã từng có nhiều người đỗ đạt và làm quan, có những người làm đến bậc đại thần. Có những vị đại thần đã tỏ được vai trò lương đống (rường cột) quốc gia của mình chứ không xu thời, xu phụ hoặc chỉ đơn thuần “giúp rập triều đình” theo chiếu lệ, nhất là khi đất nước nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, triều đình Huế mất dần vai trò và chỉ là bù nhìn. Đáng chú ý trong số đó có Phụ chính đại thần, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh.

Ông Lê Trinh (còn có tên là Lê Đăng Lĩnh, Lê Đăng Trinh) sinh năm 1850 tại làng Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị, là hậu duệ đời thứ 8 của họ Lê Cảnh (thuỷ tổ họ này gốc ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, di cư vào Bích La Đông dưới thời Lê sơ, trước thời Lê Trung Hưng, cách nay trên 450 năm). Ông Lê Trinh là con trưởng của ông Lê Cảnh Chính, Binh Bộ viên ngoại lang, Trung phụng đại phu, Đô sát viện hữu phó đô ngự sử, hàm nhị phẩm dưới triều Minh Mạng (1820-1840) và bà Lê Bá Thị Huấn. Thông minh, học giỏi, năm 20 tuổi, ông thi hương khoa năm Canh Ngọ, Tự Đức năm thứ 23 (1870) đỗ giải nguyên, năm 25 tuổi, ông thi hội khoa năm Ất Hợi, Tự Đức năm thứ 28 (1875) đỗ phó bảng. Từ đó, ông đã ra làm quan, trải qua 6 triều vua từ Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái đến Duy Tân.

Đầu tiên, ông được bổ Hàn lâm viện kiểm thảo, rồi đổi qua Hành tẩu Nội các, sau đó dần thăng tiến. Ông đã từng giữ chức vụ ở hầu hết các Bộ như: Biện lý Bộ Hộ, Bộ Lại (1884), tham tri Bộ Hình, Bộ Hộ, Bộ Binh (1891-1892) cho đến chức cao nhất là Thượng thư Bộ Lễ (1903). Ông còn giữ nhiều trọng trách ở các Viện: Tham biện Viện Cơ mật (1888), Chưởng ấn Viện Đô sát (1888), Cơ mật đại thần (1903). Ông được cử vào đoàn sứ bộ sang Trung Quốc (1882), được vua Quang Tự, nhà Thanh mến tài, ban cho ông học vị tiến sĩ, khi ông mất được nhà Thanh cử sứ giả qua phúng viếng. Trên lĩnh vực giáo dục, ông từng được sung làm giáo đạo các ông hoàng (1884), làm phó chủ khảo trường thi hương tỉnh Thừa Thiên (1887) rồi chánh chủ khảo trường thi hương tỉnh Bình Định (1891).

Trong cuộc đời làm quan của ông Lê Trinh, từ đời vua Đồng Khánh trở về trước, chức tước, ngôi vị của ông trong triều đình chưa cao như dưới thời vua Thành Thái, nên ông không có mặt trong các “kịch bản” lập vua lúc đó của các Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Trần Tiễn Thành...Nhưng từ thời vua Thành Thái trở đi, khi ông được trọng dụng ở ngôi cao nhất trong đời làm quan của mình: Phụ chính đại thần, Lễ Bộ Thượng thư sung Cơ mật đại thần (1903), phải nói rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia giải những “bài toán lịch sử” ngặt nghèo, lúc vận nước gian nan. Hai đóng góp sáng giá của Thượng thư Lê Trinh trong thời kỳ này đó là việc tôn vua Duy Tân lên ngôi, sau khi thực dân Pháp phế truất vua Thành Thái và việc không xử chém Phan Châu Trinh, mặc dầu Pháp gây sức ép, nhờ vậy mà nhà yêu nước và duy tân nổi tiếng này có điều kiện tiếp tục hoạt động, cống hiến cho phong trào duy tân, cứu nước.

*Việc tôn vua Duy Tân lên ngôi và tình cảm đặc biệt của vua Duy Tân đối với Thượng thư Lê Trinh

Sau khi vua Thành Thái, một ông vua có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, có đầu óc cải cách, chống Pháp nên Pháp đã tìm cách phế truất và buộc đi đày, vấn đề đặt ra là chọn người kế vị ngai vàng. Đây là một vấn đề khá phức tạp và gây tranh cãi, không thống nhất giữa nhiều phái trong Nam triều và giữa Nam triều với Pháp. Hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng đã viết về giai đoạn rối ren này: “Từ 1907, sau khi phế truất Thành Thái, thực dân Pháp định đưa Bửu Đảo (tức Khải Định, con Đồng Khánh) lên ngôi vua để tiếp nối dòng vua bù nhìn Đồng Khánh. Khi giải quyết vấn đề này, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một người “vô hậu” (tuyệt tự). Pháp đành phải chấp nhận Duy Tân” (Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2001, trang 388).

Lúc đó, Thượng thư Lê Trinh đã đưa ra giải pháp: chọn một người con còn nhỏ tuổi của vua Thành Thái, rồi vẫn duy trì Hội đồng phụ chính để giúp vua trông coi việc nước. Phía Pháp đã đồng ý vì cho rằng một đứa bé làm vua như Duy Tân không có gì đáng ngại, Pháp sẽ dễ bề thao túng (Pháp không ngờ được rằng vị vua trẻ này chống Pháp còn quyết liệt hơn cả vua cha Thành Thái nữa). Trong việc chọn Duy Tân, hẳn là Thượng thư Lê Trinh cũng như một số đình thần khác còn nặng lòng đau đáu, nhớ nghĩ đến vua yêu nước Thành Thái đang bị đi đày. Có một điểm đáng lưu ý rằng, thực dân Pháp không hề thay đổi ý định chọn Khải Định làm vua.

Sau khi Pháp định đưa Khải Định lên thay thế vua Thành Thái mà chưa được, Pháp đã phải chấp nhận phương án chọn vua Duy Tân, nhưng khi đã bắt vua Duy Tân phải đi đày, “Pháp đưa Bửu Đảo lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định. Đây là một ông vua bù nhìn mạt hạng” (Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng, sách đã dẫn, trang 388). Như vậy, việc chọn vua Duy Tân đã làm cho mưu đồ xuyên suốt là “chọn vua bù nhìn” của Pháp bị gián đoạn. Và Pháp đã rất “cảnh giác”. Chính Toàn quyền Đông Dương Bonhoure khi báo cáo với Bộ Thuộc địa Pháp đã săm soi cả cái tên niên hiệu Duy Tân, cho rằng cái tên này dính líu với các nhà cải cách: “Một trong các biểu hiện đặc biệt là việc chọn tên Duy Tân (cải cách) làm niên hiệu của vua mới”.

Vai trò quan trọng của ông Lê Trinh trong việc khéo léo tôn vua Duy Tân lên ngôi đã được chính vua Duy Tân khẳng định: “Cậy một lời mà định kế, hợp hai nước mà suy tôn”. Sinh thời, vua Duy Tân đã giành cho ông nhiều tình cảm yêu mến, tin cậy. Nhà vua và triều đình đã đánh giá cao công lao của ông trong việc phò tá, dạy dỗ, giúp đỡ nhà vua học hành, giúp triều đình tháo gỡ khó khăn, đặc biệt ca ngợi ông sánh với các nhân tài nổi tiếng thời xưa ở Trung Quốc.

Trong bài chế của vua Duy Tân thăng hàm Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ cho Phụ chính đại thần, Lễ Bộ Thượng thư Lê Trinh đề ngày 23 tháng Chín năm Duy Tân thứ 3 (1909) đã viết (dịch nghĩa): “Yêu mến nghĩ đến ông họ Lê chức Phụ chính đại thần Lễ Bộ Thượng thư: xuất thân khoa bảng; rường cột quốc gia. Nổi tiếng ở đời, trải tới chức quan trọng yếu; gặp thời thoả chí, từng qua thử thách khó khăn. Lại làm việc nơi Dung đài; bèn bàn mưu trong Hựu phủ. Thanh liêm ngay thẳng, nhân tài xưa sánh Di Quỳ; cần mẫn rõ ràng, tướng nghiệp trước như Bính Nguỵ. Vua cha gặp lúc nhọc nhằn, bèn trao tông miếu; con nhỏ đang khi thơ ấu, phải nhận ngôi trời. Cậy một lời mà định kế; hợp hai nước mà suy tôn. Lấy vực Ngu mà rửa vũng Hàm, mặt nhật năm rồng nâng đỡ; chặt chân ngao mà làm bốn cực, trời cao tám cột chống che. Ta lúc tuổi thơ, kính đương ngôi báu. Tháo gỡ khó khăn, đã có công lao phò tá; ân cần dạy dỗ, lại còn giúp đỡ học hành. Đã mến yêu nhiều, nên ban hàm lớn”.

Khi ông Lê Trinh mất (năm 1909) , vua Duy Tân đã truy phong cho ông tước Vệ nghĩa tử, đồng thời sai Nội các soạn một bài dụ, một bài chế nhân dịp truy phong tước này cho ông và một bài văn ban tế cho lễ tế ông. Bài chế truy phong tước Vệ nghĩa tử đã khẳng định năng lực nội trị và ngoại giao của ông: “Trong yên quốc thị, ngoại vững bang giao. Quận triều đều trọng, ghét chán thảy không” và tiếng thơm của ông: “Nghĩa vua tôi trọn vẹn trước sau, tình khen thưởng cùng chung rạng rỡ. Còn mãi sách son, vẻ vang mồ biếc”. Bài văn ban tế thể hiện tình cảm đầy ngậm ngùi, xót thương của vua Duy Tân đối với ông:

“Vua tôi là nghĩa, còn với đất trời
Trước sau gặp gỡ, thương mến khôn nguôi
Khanh sinh ở thế, tài giỏi tót vời
Năm triều để tiếng, khuôn mẫu cho đời
Gặp thời bối rối, vận nước bời bời
Khanh cùng phụ chính tháo gỡ xong xuôi
Ngu yên nâng giữ, Hàm trì sáng tươi
Năm rồng thời cổ, mang ánh mặt trời
Ta là con nhỏ, hiểu biết nông khơi
Nhờ khanh chỉ bảo, dạy đạo làm người
Cớ sao ốm nặng, bỗng chốc xa chơi
Các quan còn đó, khanh đã về trời,
Bóng khanh phảng phất, lòng trẫm bồi hồi
Tiệc bày lễ tế, khanh đến xin mời
Ôi!...”.

Ông Lê Trinh đã để lại một tập di cảo gồm thơ và câu đối có tên là “Bích Phong thi tập” (Bích Phong là tên hiệu của ông). Đánh giá về tập di cảo này, nhà thơ Lương An viết: “Tập thơ gồm phần lớn là thơ đề từ, xướng hoạ, nhưng cũng có một số bài nói lên nỗi lòng của tác giả trước tình thế đất nước” (Tuyển tập Lương An, NXB Thuận Hoá, Huế, 2004, trang 380). Qua tập di cảo này, hiển lộ bóng dáng một con người không tham địa vị, phú quý (ông gọi địa vị mình đang giữ là “Bị vị đáo xuân quan”, vị hão chức cao dày), chí để ở chốn thanh nhàn, lánh đua tranh thị thành. Chứng kiến cảnh lụt lội hoành hành ở Huế, ông đã đem đối lập cảnh xót xa đáng thương của người nghèo với cảnh ăn chơi của hạng cao sang: “Lư lý gian nan tình trạng thiết, Bằng thuỳ hội đáo ỷ la diên” (Làng xóm khó khăn thê thảm quá, Nhờ ai vẽ đến tiệc ăn chơi).

*Xử cho Phan Châu Trinh thoát khỏi án “trảm quyết” (chém ngay)

Năm 1908, phong trào quần chúng nhân dân kháng thuế đã bùng phát ở Quảng Nam rồi lan nhanh đến nhiều nơi (còn gọi là dân biến Trung Kỳ), khiến cho thực dân Pháp hoảng hốt đối phó và tăng cường đàn áp, đánh phá các cơ sở Duy Tân, bắt bớ và kết án hàng loạt nhà yêu nước, trong đó có Phan Châu Trinh, người bị Pháp quy kết là chủ mưu. Phan Châu Trinh đã bị bắt ngày 31-3-1908 tại Hà Nội, theo đúng ý đồ thâm độc của Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque, bị giải về Huế để xử và Phủ Phụ chính đã xử bản án đầu tiên ngày 10-4-1908.

Trong số 8 thành viên của Phủ Phụ chính có Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh. Thượng thư Lê Trinh và Phan Châu Trinh vốn ở cùng Bộ Lễ. Sau khi thi đỗ phó bảng khoa thi hội năm Tân Sửu, Thành Thái 13 (năm 1901), Phan Châu Trinh vào làm quan ở Bộ Lễ với chức hành tẩu, ngạch kiểm thảo. Vậy là ở Bộ Lễ có hai ông Trinh, một ông là thủ trưởng, một ông là thuộc viên. Nhưng Phan Châu Trinh chỉ làm quan cho có lệ. Ông thường hay đi đây đi đó để tìm người đồng chí hướng, mưu việc lớn, nên hay bỏ việc quan, đến mức Thượng thư Lê Trinh phải cười bảo: “Một anh thừa biện của Bộ tôi mà cả năm tôi không thấy mặt”. Ông Lê Trinh xử Phan Châu Trinh là xử thuộc viên dưới quyền.

Theo những thông tin không đúng lưu truyền lâu nay thường cho rằng chính Nam triều đã xử tử hình Phan Châu Trinh, nhờ có Liên minh Nhân quyền (Pháp) can thiệp nên án tử hình mới được đổi thành khổ sai chung thân. Sự thực không phải như vậy. Theo những tài liệu mới do bà Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh sưu tầm tại Trung tâm lưu trữ quốc gia hải ngoại Pháp (Centre des Archives d’Outre mer, viết tắt là CAOM), được tập hợp in vào sách “Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới”, NXB Đà Nẵng, 2001, cho biết, trong quá trình xét xử Phan Châu Trinh tại Huế, chính Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque đã “cố gò Phủ Phụ chính vào quyết định “trảm quyết” nhưng nhờ lương tri và dũng khí của các thượng thư, nổi bật nhất là hai cụ Cao Xuân Dục và Lê Trinh, đã dám lên tiếng cãi lại Lévecque với sự đồng tình của toàn Phủ Phụ chính. Nhờ vậy mà Phan Châu Trinh đã thoát án chém tức thì, lãnh án chém nhưng giam lại” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 8).

Bà Lê Thị Kinh đánh giá: “Đây là công lao của Phủ Phụ chính thời Duy Tân năm thứ hai, còn nặng bất bình với thực dân trong việc phế truất vua Thành Thái” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 9). Quả đúng vậy, chính Toàn quyền Đông Dương Bonhoure qua một bản báo cáo tổng hợp về dân biến Trung Kỳ ngày 22-7-1908 gửi Bộ Thuộc địa Pháp đã phải thừa nhận có “sự bất bình trong giới thượng lưu An Nam đối với việc phế truất Thành Thái” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 62).

Diễn tiến vụ án phải nói là khá hiểm nghèo cho nhà yêu nước Phan Châu Trinh, bởi ý đồ áp đặt thâm hiểm từ phía Lévecque. Tại bản án đầu tiên của Phủ Phụ chính xử Phan Châu Trinh ngày 10-4-1908, mặc dù kết luận rằng Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là “đồng đảng” và “phạm tội phản nghịch”, nhưng Phủ Phụ chính đã phân định rằng Phan Bội Châu hiện đang ở nước ngoài, còn Phan Châu Trinh chỉ mới ở trong nước, “vì vậy khi làm án phải phân biệt trường hợp của hai người có khác nhau, người đã thực hiện và người chưa thực hiện”.

Cho rằng Phan Châu Trinh có “âm mưu phản nghịch nhưng chưa thực hiện”, Phủ Phụ chính đã không xử tử hình (chém ngay) Phan Châu Trinh (án tử hình theo luật lúc đó chỉ áp dụng trong trường hợp “phạm tội phản nghịch, nghĩa là phản lại nước mình để đi theo một nước khác” và việc phản nghịch đó đã thực hiện) mà xử nhẹ hơn ở mức án giảo giam hậu (thắt cổ cho chết, nhưng không thi hành án ngay mà giam lại), đày đi Lao Bảo và cấm cố chung thân, không được ân xá.

Bản án “nhân đạo” này đã bị Khâm sứ Lévecque bác ngay trong phiên họp ngày 11-4-1908. Lévecque cho rằng Phủ Phụ chính đã nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật. Theo Lévecque, Phủ Phụ chính đã vận dụng điều 224 về “mưu loạn vị hành” (mưu loạn nhưng chưa làm) để xử giảo án treo cho Phan Châu Trinh là không đúng, vì không thể nói Phan Châu Trinh mưu loạn mà chưa làm, chính Phan Châu Trinh đã tổ chức “sách động” dân chúng, đã hoạt động gây ảnh hưởng không chỉ ở Quảng Nam mà cả ở các tỉnh Trung Kỳ, đã đi từ Nam chí Bắc tổ chức những Hội kín, liên lạc thường xuyên với Phan Bội Châu...

Điều thú vị là qua văn bản của Lévecque bác bản án của Phủ Phụ chính, Lévecque đã trích dẫn cho biết về các luận điểm của hai vị đại thần Phủ Phụ chính là Lê Trinh và Cao Xuân Dục (Thượng thư Bộ Học, người trước đó, lúc còn làm Hải phòng sứ tỉnh Hải Dương đã từng vác ghế đánh một tên Công sứ Pháp do có thái độ khinh miệt quan lại Nam triều) xử “bênh” cho Phan Châu Trinh: “Quan Thượng thư Bộ Lễ (tức Lê Trinh-chú thích của người viết) yêu cầu chú ý là cho đến nay những người biểu tình chưa hề sử dụng vũ khí...Quan lớn Cao Xuân Dục tuyên bố “điều 224 không nêu phải trảm quyết ngay” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 26).

Vì muốn “trảm quyết” (chém ngay) Phan Châu Trinh, Lévecque cho rằng không thể áp dụng điều 224 về “mưu loạn vị hành” (mưu loạn nhưng chưa làm) để xử tội trạng Phan Châu Trinh được mà phải áp dụng điều 223 về “tội làm loạn” mới đúng. Từ đó, Lévecque nhắc Phủ Phụ chính “phải áp dụng đúng đắn văn bản pháp luật, không để cho những suy nghĩ khác chi phối”, phải “xem xét lại bản án này”. Nhưng với “lương tri và dũng khí của Phủ Phụ chính đã dám cưỡng lại lệnh Khâm sứ, đứng đầu là Cao Xuân Dục và Lê Trinh”, như đánh giá của bà Lê Thị Kinh, rút cuộc, bản án thứ hai của Phủ Phụ chính làm lại (sau khi đấu tranh với Lévecque) ngày 11-4-1908 và Lévecque đã phải duyệt vẫn chỉ xử Phan Châu Trinh với án trảm giam hậu (chém nhưng giam lại) và đày chung thân cấm cố ở Lao Bảo (sau đó, Lévecque và Toàn quyền Pháp đã đổi thành đày đi Côn Đảo).
Có một điểm đặc biệt đáng chú ý, công lao của Phủ Phụ chính (dĩ nhiên trong đó có phần quan trọng của Thượng thư Lê Trinh) giúp cho Phan Châu Trinh thoát chết đã được ghi nhận, khẳng định với nhiều cảm kích qua bản điều trần bằng Pháp văn có tựa đề “Những cuộc biểu tình năm 1908 của dân Trung Kỳ-Đơn xin ân xá” với chữ ký Phan Châu Trinh ngày 8-4-1912 tại Paris gửi Liên minh Nhân quyền Pháp để chuyển đến Bộ trưởng Thuộc địa Pháp, có đoạn:
“Trong một thời gian ngắn nhiều bản án đã được chính quyền Pháp phê duyệt xử phạt các nhà nho bị bắt, trong đó có tôi, người thì án tử hình, người thì án lưu đày hoặc khổ sai chung thân. Tôi xin nói rõ ở đây, để làm rạng danh họ, rằng một số vị quan Triều đình Huế, mặc dù bị sức ép của Toà Khâm sứ, đã từ chối ký vào bản án tử hình của tôi vì họ chẳng tìm ra điều gì để buộc tội tôi, ngoài một điều là tôi đã không làm vừa lòng một số quan chức. Nhân đây, tôi xin tỏ lời khen về một chút liêm sỉ còn sót lại trong các bản án man trá chứa đựng biết bao điều tàn bạo” (sách đã dẫn, quyển 4, tập 1, trang 258-259).

Đem so sánh vụ xử án Phan Châu Trinh với vụ xử án chí sĩ Trần Quý Cáp liền sau đó, có thể nói rằng “rút kinh nghiệm” qua vụ xử Phan Châu Trinh không theo đúng ý đồ thâm độc của Lévecque, thực dân Pháp đã tiến hành “xử nóng” ngay Trần Quý Cáp. Sau khi Trần Quý Cáp bị Công sứ Nha Trang bắt giữ ngày 17-4-1908, Lévecque đã không cho giải ông về Huế để Phủ Phụ chính xử theo thông lệ nữa mà giữ lại Nha Trang rồi ép các quan tỉnh ở đó làm án trảm quyết ngay tại chỗ, giết Trần Quý Cáp ngày 17-5-1908 bên cầu Phước Thạnh, sông Con, Khánh Hoà. Hẳn Lévecque ngại rằng “xử theo thông lệ” như vụ Phan Châu Trinh dễ khiến cho Trần Quý Cáp lại gặp may thoát khỏi án chém?

Từ trường hợp Phụ chính đại thần, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh dẫu làm quan trong thế kẹt: vận nước ngàn cân treo sợi tóc, không ít vị quan chỉ là bù nhìn hoặc cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, ông vẫn tìm cách lo nước, thương đời theo cách riêng của mình, trường hợp đó đã chứng tỏ phẩm chất và tiết tháo nhà nho đáng quý, đáng trân trọng của ông.

Trong bài thơ tự hoạ về chân dung của mình, ông viết: “Đan tâm chiếu xuất nan” (Lòng son khó tỏ bày), khó là do thế kẹt của thời cuộc, nhưng dẫu sao, ông đã ít nhiều chống chọi được với thế kẹt đó, không xu thời, buông xuôi, để tỏ được “lòng son” của mình qua việc tôn phò vua yêu nước, xử bênh cho nhà duy tân cứu nước. “Lòng son” đó đã khiến cho vua Duy Tân và nhà duy tân nổi tiếng Phan Châu Trinh cảm kích (như trên đã chứng minh). Trường hợp Thượng thư Lê Trinh đã góp phần nói lên tấm lòng trung trinh của người Quảng Trị trước sóng gió lịch sử, nói lên cái “văn chất bân bân” (văn chất rờ rỡ) của người Quảng Trị mà vua Tự Đức đã từng ngợi khen.

NGUYỄN HOÀN
READ MORE - NGUYỄN HOÀN - LỄ BỘ THƯỢNG THƯ LÊ TRINH

Sunday, October 31, 2010

NGUYỄN ĐỨC TÙNG - WILLIAM CARLOS WILLIAMS: THƠ CÀI TRÊN TỦ LẠNH

Có lần tôi nghe William Carlos Williams đọc bài thơ “This Is Just To Say”. Giọng của ông khác lạ so với những thi sĩ khác trong cùng băng đọc thơ, không rè mà trong trẻo một cách đáng ngạc nhiên, của một người đàn ông có lẽ có tính tình vui vẻ. Đang lái xe một mình trên xa lộ miền quê mùa hè, không vội lắm, tôi nổi hứng chạy chậm lại rồi tấp vào giữa hai bụi gai có nhiều trái dâu blackberries, ngồi nghỉ mệt và nghe lại cuốn băng lần nữa.

Anh đã ăn

những trái mận

ở trong

hộp đá lạnh

Và chúng

hình như

được em để dành

cho bữa điểm tâm

Thứ lỗi cho anh

chúng thơm ngon quá

ngọt quá trời

Mà lạnh nữa

This is just to say

I have eaten

the plums

that were in

the icebox

and which

you were probably

saving

for breakfast

Forgive me

they were delicious

so sweet

and so cold


Đây là một bài thơ dễ bị người đọc bỏ qua. Thậm chí có người sẽ bực mình vì lối viết hơi ngớ ngẩn, dây dưa thong thả, kiểu như:

that were in

hay

and which

tạo thành những câu thơ riêng biệt.

Bài này được viết như một mẩu giấy ghi chép, có vẻ như là của một người đàn ông ghi vội cho vợ mình. Dĩ nhiên cũng có thể là của một người đàn bà viết cho một người đàn ông, hay của một người đàn ông cho một người bạn trai, và quan hệ của họ không phải là quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên cái ấn tượng mà bài thơ để lại, cũng như tiểu sử của tác giả, dễ làm ta nghĩ đến một mẩu giấy của người chồng, gắn hờ đâu đó trên cửa tủ lạnh. Hay trên bàn ăn, hay ở dưới gối, dĩ nhiên. Với Williams, ở đâu mà chẳng được.

Bài thơ dùng ngôn ngữ văn xuôi, không vần, vốn thường thấy trong thơ của ông. Ta nhớ rằng người có công nhất trong việc phá vỡ lối thơ truyền thống ở Mĩ, làm cho thơ tự do (free verse) trở thành phổ biến như hiện nay, cùng thời với Eliot, Ezra Pound, nhưng công lao vượt xa hai nhà thơ này, chính là Williams.

Sinh năm 1883, mất năm 1963, ông sống suốt mấy mươi năm bề ngoài trầm lặng mà bên trong sôi nổi ở thị trấn nhỏ Rutherford, New Jersey, sinh quán của mình. Thực ra, Williams đã sống hai cuộc đời khác nhau. Như một người thầy thuốc, ông chữa bệnh cho hàng chục ngàn người dân của thị trấn, đỡ đẻ cho hơn hai ngàn đứa bé sơ sinh, làm việc quần quật, nếu dùng lối nói của chính ông, “như một người nô lệ”.

Giữa những giờ làm việc, trong những kì nghỉ ngắn ngủi, thậm chí giữa hai bệnh nhân, ông đã dành thời gian cho thơ và văn học, cũng tận tâm như đối với người bệnh. Và khai sinh ra một nền thơ mới của Mĩ. Ông đã viết bốn mươi chín cuốn sách, trong đó có nhiều tập thơ, bốn vở kịch, một vở opera, năm mươi hai truyện ngắn, bốn cuốn tiểu thuyết lớn, một cuốn phê bình văn học, một cuốn lịch sử Hoa Kỳ, một cuốn tiểu sử của mẹ ông v.v… Williams đã từng kể lại trong cuốn tiểu sử tự thuật của mình:

Năm phút, mười phút, lúc nào cũng tìm ra được. Tôi có một cái máy đánh chữ ở trên bàn làm việc. Tất cả những điều tôi cần là kéo cái nắp ra, và tôi sẵn sàng ngồi xuống. Tôi làm việc ở tốc độ tối đa. Nếu một bệnh nhân đến gõ cửa trong lúc tôi đang viết dở một câu văn, bang, sập máy lại, tôi là một thấy thuốc. Cuối cùng sau mười một giờ đêm, khi bệnh nhân cuối cùng đã lên giường ngủ, lúc nào tôi cũng tìm được thời gian để gõ thêm mười trang nữa. Thật ra tôi không thể nào đi nghỉ được nếu như đầu óc tôi không rũ bỏ được những ám ảnh chúng giày vò tôi suốt ngày.

Williams quan tâm đến các giá trị phổ quát của thơ ca.

Thật khó tìm được

tin tức gì trong các bài thơ

thế mà người ta vẫn chết

đau đớn mỗi giờ

vì thiếu điều chỉ tìm thấy trong thơ

It is difficult

to get the news from poems

yet men die miserably every day

for lack

of what is found there.

Ông cũng là người xiển dương quan điểm cho rằng nước Mĩ là của người Mĩ, thơ Mĩ phải mang tính cách đặc trưng của một đất nước độc lập về văn hóa, tách khỏi ảnh hưởng mà ông cho là nặng nề của Anh và châu Âu vào thời đó. Mặt khác ông lại là người có tư tưởng dân chủ và hoà bình, rất quan tâm đến các sự kiện chính trị đương thời.

Thơ ông phản ánh điều đó. Ngày 6 tháng 12 năm 1957, Hoa Kỳ lần đầu tiên phóng vệ tinh vào vũ trụ. Thất bại. Thế mà hai tháng trước đó, tháng 10 năm 1957, Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh Sputnik vào quĩ đạo trái đất, mở đường cho việc đưa Gagarin vào vũ trụ. Rõ ràng họ đang chiếm lĩnh bầu trời và trong không khí chiến tranh lạnh, người Mĩ đã bị bỏ rơi ở đằng sau. Một tương lai ảm đạm chờ đợi họ. Mặc dù thế, họ đã phản ứng với một thái độ khiêm tốn, bình tĩnh, chững chạc, công nhận sự thất bại rõ ràng của mình. Và chính thái độ này là một khởi đầu cho việc đưa người lên mặt trăng mười năm sau đó.

Gagarin nói, hân hoan tuyệt vời,

Anh có thể

Đi một mạch suốt đời

Anh bơi

Ăn và hát

Và bay vọt lên từ đó

Một trăm lẻ tám phút

Khỏi bề mặt

Của trái đất, mỉm cười

Và rồi anh trở lại

Vị trí cũ

Giữa chúng ta

Từ sự chia ra

Và trừ mất

Ngón chân đến gót chân

Nơi gót chân và ngón chân anh cảm thấy

Như mình vừa nhảy múa xong

Heel & Toe To The End

Gagarin says, in ecstasy,

He could have

Gone on forever

He floated

Ate and sang

And then he emerged from that

One hundreds eight minutes off

The surface of

The earth he was smiling

Then he returned

To take his place

Among the rest of us

From all that division and

Subtraction a measure

Toe and heel

Heel and toe he felt

As if he had

Been dancing

Ông viết bài này chỉ một thời gian ngắn sau khi Gagarin bay lên quĩ đạo, như một lời ngợi ca đối với thành tựu khoa học của Liên Xô, lúc ấy đang là đối thủ của Mĩ trong chiến tranh lạnh, vì ông cho rằng đó cũng là tin vui chung của loài người. Khi nước Mĩ gửi Armstrong lên mặt trăng, các đồng nghiệp của ông ở nước Nga xa xôi đã giữ im lặng. Nhưng ông không biết điều ấy, vì đã qua đời trước đó nhiều năm.

Williams thường chọn phương pháp giản dị để mô tả sự vật, lược bỏ các chi tiết ít quan trọng, làm cho bài thơ của ông có hơi hướng như một bài haiku Nhật, nhưng phát triển về những hướng khác lạ. Tháng Tư vừa rồi, trời vào xuân, một buổi sáng ngày nghỉ thức dậy muộn, đứng trong cửa sổ nhìn ra vườn sau, qua màn mưa bụi trắng, tôi thấy những bông oải hương tím và cúc trắng đầu mùa nở rộ trên chiếc xe cút kít để ở cuối góc vườn, dựng bên hàng rào từ mùa thu năm ngoái. Lúc đó tôi không thể không nhớ đến bài thơ “The Red Wheelbarrow” nổi tiếng của ông.

So much depends

Upon

Nhưng khác với haiku, phong cách của các nhà thơ trường phái “hình ảnh sâu” (deep imagism) mà Williams có phần nào chịu ảnh hưởng, cũng vừa là một trong những người khởi xướng, không ràng buộc về cấu trúc và đề tài, và mở rất rộng các đường biên của haiku vốn là thể thơ có những quy định (thâm sâu) chặt chẽ riêng. Không chỉ có thế,Williams thường viết về các đề tài hàng ngày, các sự vật nhỏ mọn, như thể ông cố tình làm cho thời gian đứng lại.

Rất nhiều thứ

Dựa lên

Dựa lên cái gì?

a red wheel

barrow

một chiếc xe cút

kít đỏ

Những thứ gì dựa lên?

Ta cảm thấy gánh nặng của mưa, của đất, côn trùng và thảo mộc, của bầu trời cùng trĩu xuống trên một chiếc xe nhỏ. Williams suốt đời đi tìm một thứ ngôn ngữ nối kết thơ ca và những kinh nghiệm của đời sống bình thường. Bài thơ của ông kêu gọi người đọc làm mới lại cái nhìn của mình đối với thế giới, như một đứa trẻ vừa thức dậy buổi sáng mai. Nhà thơ không tin rằng ngôn ngữ của ông đủ sức để mô tả đời sống và tâm hồn, vì vậy ông cố gắng đặt để các sự vật, thiên nhiên hoa cỏ, như thể chúng là, với một chút sắp xếp tối thiểu để dọn đường cho người đọc. Trong một thời kỳ mà chủ nghĩa siêu thực Pháp làm mưa làm gió ở châu Âu và khắp thế giới, Williams và những người cùng khuynh hướng với ông, hứng khởi từ những gợi ý nghệ thuật của châu Á và Nhật Bản, nhưng trong một tinh thần hết sức độc lập, đã dựng nên những viên đá đầu tiên của nền thơ Mĩ với chủ nghĩa khách quan (objectivism).

Đọc thơ Williams, tôi lúc nào cũng nhận được cảm giác về sự hòa hợp dịu dàng giữa con người và đồ vật, giữa xã hội và thiên nhiên. Thơ ông ít nói trực tiếp về người, nhưng cảnh vật như chiếc xe chở gạch đá gây ấn tượng rõ ràng về những người làm vườn hay làm đường, công việc đồng áng hay xây dựng.

Như một người đi qua đường hay một người đứng trong cửa sổ, lúc nào ông cũng chăm chú nhìn sự vật, chúng đang

mờ đi

trong nước

mưa

glazed with rain

water

Thơ ông cũng ít nói về người nữ, nhưng sự vật trong thơ lấp lánh như vừa được chạm tới bởi người đàn bà mà ông yêu dấu. Mặc dù là một thầy thuốc có đời sống mực thước, ông lại được các nhà thơ trẻ tuổi hơn, nổi loạn, phá phách hơn, xem là một tấm gương. Như Allen Ginsberg, kẻ đã gây ra một cơn sốt ở Mĩ với tác phẩm Howl (Hú) nổi tiếng vào thời đó. Chính Williams là người đã viết đề tựa cho lần xuất bản đầu tiên của tập thơ này.

Người đọc ít khi nghĩ về Williams như một người làm thơ tình. Bài thơ Ghi mấy chữ (This is just to say) trên đây cũng có thể gây ra ấn tượng đó. Thật ra nó chính là một bài thơ tình sâu xa. Tính giản dị, bình thường của bài thơ chở được không khí thân mật của một quan hệ âu yếm.

Không phải chỉ chữ “thứ lỗi” mà còn là bản thân toàn bộ lời ghi chép của người đàn ông để lại chứng tỏ lòng tôn trọng của anh ta đối với người vợ hay người yêu của mình.

Chúng ta không rõ những trái mận để trong tủ lạnh là dành cho người đàn bà, hay cho anh ta, hay cho cả nhà. Ăn vội vàng những trái mận như thế có thể làm cho người khác bất ngờ khó chịu vì không có bữa điểm tâm. Nhà thơ xuất hiện như một chàng trai trẻ trung, hay hơn thế nữa, như một đứa trẻ.

Niềm vui của nhân vật là niềm vui hồn nhiên. Người đọc dễ tin rằng niềm vui ấy là có thật.

Nhắm mắt lại, ta nghĩ đến những ngày hè nóng nực, mồ hôi ròng ròng, khát cháy cổ, và có thể đang đói bụng, lại cầm trên tay những trái mận vừa thơm vừa ngọt vừa lạnh. Quả thật không ai cầm lòng được.

Bài thơ được viết vào lúc nào?

Ban đêm chăng? Khi mọi người đã đi ngủ và anh một mình lang thang trong căn nhà rộng? Hay anh lái xe về nhà khi trời đã tối, vợ anh đi làm ban đêm, hay là đã ngủ say. Và anh mở cửa nhà, để lại sau lưng bầu trời đầy sao mùa hạ, đứng ngẫm nghĩ một lúc lâu trong căn bếp tối mờ, rồi anh mở tủ lạnh? Đó thật là một niềm vui cuộc sống.

Mặc dù được viết một cách nhẹ nhõm, cách nói có vẻ tình cờ, bài thơ là một sáng tác đầy cẩn trọng, sự buông chữ nhẩn nha, cố gây cảm giác hồn nhiên, tự nhiên, gây tương phản giữa niềm say mê của con người và cảm giác tội lỗi, cũng như sự tương phản giữa người nam và người nữ. Đoạn mở đầu viết về những trái mận nằm trong ngăn đá của tủ lạnh. Đoạn thứ hai nói về một người khác, trong trường hợp này ta nghĩ là một người phụ nữ, và sinh hoạt gia đình. Đoạn thứ ba trở lại với những trái mận. Williams đã phóng lớn một sự việc nhỏ trong đời sống thành một hoàn cảnh tiêu biểu cho những xung đột có tính phổ quát hơn của các cá nhân xuyên qua những cám dỗ của đời sống.

Tôi muốn nói thêm một điều, có vẻ hơi thừa, nhưng dễ bị người đọc bỏ qua.

Những trái mận rất thơm là khứu giác. Chữ delicious trong tiếng Anh cũng có nghĩa là ngon.

Chúng lại ngọt (sweet), là vị giác.

Mà lại còn lạnh (cold) nữa, là xúc giác.

Như thế, thơ không phải chỉ là ngôn ngữ mà còn là cảm giác. Hay một trái tim ấm nóng và một tình yêu mát lạnh? Cũng là cả hai, cũng như những con gà có màu lông trắng xóa chạy lúc thúc hay kêu chiêm chiếp bên chiếc xe cút kít chở gạch đá dưới trời mưa của ông. Trong thơ Williams sự vật thường đi thành đôi thành cặp.

beside the white

chicken

bên cạnh những con

gà trắng

Chúng đứng im lặng mổ thức ăn hay chạy quanh chiếc xe đuổi nhau kêu chiêm chiếp thì không thấy ông nói rõ, nên bạn phải tưởng tượng thôi.

Các tài liệu tham khảo

1. Imaginations, William Carlos Williams, NXB New Directions, 1967(?)

2. The Autobiography of William Carlos Williams, NXB New Directions, 1967.

3. The Portable Beat Reader, Ann Charters, NXB Penguin, 1992.

4. Oxford Book of American Poetry, David Lehman, NXB Oxford, 2006.

© 2009 Nguyễn Đức Tùng


THƠ CỦA WILLIAM CARLOS WILLIAMS

*

Apology

Why do I write today?

The beauty of

the terrible faces

of our nonenties

stirs me to it:

coloured women

day workers

old and experiences-

returning home at dusk

in cast off clothing

faces like

old Florentine oak.

also

The set pieces

Of our faces stir me-

leading citizens-

but not

in the same way.

*

Proleterian portrait

A big young bareheaded woman

in an apron

Her hair slicked back standing

on a street

One stockinged foot toeing

the sidewalk

Her shoe in her hand. Looking

intently into it

she pulls out the paper insole

to find the nail

That has been hurting her

*

Memory of April

You say love is this, love is that:

Poplar tassels, willow tendrils

the wind and the rain comb,

tinkle and drip, tinkle and drip—

branches drifting apart. Hagh!

Love has not even visited this country.

*

This Is Just to Say

I have eaten

the plums

that were in

the icebox

and which

you were probably

saving

for breakfast

Forgive me

they were delicious

so sweet

and so cold

*

Lời biện hộ

Tại vì sao ngày hôm nay tôi viết?

Đó là vẻ đẹp

những gương mặt khủng khiếp

của những kẻ vô danh

gợi cho tôi cảm xúc:

những phụ nữ da đen

ngày làm việc của những công nhân

già cả và giàu kinh nghiệm

trở về nhà rất muộn

trong bộ quần áo nát nhàu

những gương mặt của họ giống như

cây sối Florentine xưa cũ.

và nữa

Những bộ mặt của

Quí vị gây cảm hứng cho tôi –

những con người –

đáng nể nhưng

đó là chuyện khác.

*

Chân dung người vô sản

Một người phụ nữ to lớn đầu trần

mặc yếm

Với mái tóc chải bóng

đứng ở bên đường

một chân mang bít tất phụ nữ

chạm đến lề đường

Chiếc giày nàng cầm trong tay. Và nhìn

vào trong rất chăm chú

người phụ nữ lôi cái đế giày bằng giấy

muốn tìm chiếc đinh

Đã từ lâu làm đau chân nàng

Ký ức tháng Tư

Bạn nói: “Tình yêu là, tình yêu là:

chiếc lá cây dương, là chùm liễu rủ

là chiếc lược của mưa của gió

là giọt nhỏ và tiếng leng keng –

những cành lá rung rinh” – Ha!

Tình không bao giờ đến những nơi này cả.

*

Điều cần nói

Anh đã ăn

những quả nho khô

lấy từ

trong tủ lạnh

những quả nho

mà em định

để dành

cho bữa sáng

Tha lỗi cho anh

nho thật là ngon

thật ngọt

và thật mát.

*

Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng

READ MORE - NGUYỄN ĐỨC TÙNG - WILLIAM CARLOS WILLIAMS: THƠ CÀI TRÊN TỦ LẠNH

LÊ QUANG THÁI - PHỦ ĐỆ DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN



Một du khách người Pháp cao tuổi cầm bức ảnh cũ, một kỷ vật của người thân trong gia đình từng giữ chức vụ Chánh văn phòng rồi Khâm sứ tại Trung Kỳ, đặc biệt dưới bức ảnh có nét chữ bằng tiếng Pháp của người tặng và kèm theo chữ ký lộ nét chân phương: Phụng Hóa công.
Ông ta hỏi: Anh có biết Phụng Hóa công là ai không?Tôi vui vẻ trả lời: Công là “ông ấy”. Ông tưởng tôi trêu ông - do hiểu nhầm. Khách nói: Sao lại là tôi? Ngại khách phật lòng, tôi phải giải thích khá dài dòng nào công là “vị mà mình tôn kính”, công là “tước công” đứng đầu trong ngũ tước: công, hầu, bá, tử, nam. Còn Phụng Hóa là tên huyện Phụng Hóa của tỉnh Ninh Bình. Phụng Hóa công là tước hiệu vua Thành Thái phong cho hoàng tử Bửu Đảo - con vua Đồng Khánh vào năm 1906. Và vị khách yêu Huế này còn ước mong đi tìm nơi ở của Phụng Hóa công ngày xưa.
Người Pháp ở xa Huế đến hơn nửa vòng quay trái đất mà lại đi tìm chuyện “vang bóng một thời” theo kiểu cách vua Tự Đức “đập cổ kính ra tìm lấy bóng” thì than ôi phải chào thua. Vâng,du khách đang đi tìm về phủ đệ đó, không khéo là mình phải “học” ông ta về di sản kiến trúc cung đình.



* Ngao du tìm về bóng dáng của phủ đệ ngày xưa
Già rồi, tôi ỷ vào thân tra, bỏ việc nhà cho người vợ đảm đang; hằng ngày lên ngựa sắt, đạp tòng teng khắp phố phường và vùng ven đô thị; có khi cao hứng về thấu huyện. Say máu là đi, bất kể trời đất mưa gió phảng phất. Đi một ngày đàng học thêm, biết thêm chút ít tạo niềm vui và khoái chí lúc ngồi uống trà mà “cại lại bạn bè “ để văng ra cái mới.
Tiềm để tức nơi chốn thái tử hoặc hoàng trưởng tử, hoàng tử trước ngày lên ngôi vua. Đó là phủ đệ đã thăng hoa làm bệ phóng cho chủ nhân ông trở thành ngôi vị thiên tử trị vì thiên hạ theo đúng với nguyên nghĩa. Theo thời gian, phủ đệ của Phụng Hóa công đã trở thành An Định Cung ngày nay soi bóng bên dòng sông Lợi Nông nắng đục mưa trong với nhiều phủ đệ khác như Tùng Thiện, Kiến Hòa, Kiên Thái, Mỹ Hóa…
Kể từ giữa thế kỷ 19, Tùng Thiện công lập Tiêu Viên rồi Ký Thưởng Viên để rước mẹ là bà Thục Tân khỏi Tử Cấm Thành vào năm 1849 thì có nhiều ông hoàng cũng nối gót về theo lập phủ biên sông Phủ Cam, một phần của sông Lợi Nông với những đình đài, chùa miếu, làm cho cảnh sông nước thêm phần nhộn nhịp.
Năm 1939, chấp bút viết tiểu sử Tuy Lý vương, nhà văn Trần Thanh Mại đã có nhận xét bóng dáng của Ký Thưởng Viên: “Không ngày nào số văn nhân hội họp không dưới nửa trăm người; Tùng Thiện vương cũng như một vị Mạnh Thường quân nho nhỏ” để tỏ lòng tôn kính hai bậc Thi ông, Thi bá của nhà Nguyễn mà tiếng thơm lan tỏa tới tận Trung Quốc: “Thi đáo Tùng - Tuy thất thịnh Đường”.
Sách Tùng Thiện Vương (1819 - 1870) do hậu duệ của Thi ông là Ưng Trình và Bửu Dưỡng ấn hành năm 1970 để kỷ niệm 100 ngày mất của ông nội, cố nội mình đã cho người đời có một ý niệm về hình ảnh của phủ đệ:
“Theo lệ, các hoàng tử lên 18 tuổi thì phải xuất phủ, nghĩa là phải ra ngoài Tử Cấm Thành, biệt lập gia đình như Võ Xuân Cẩn đã tâu, xin ơn cho các hoàng thân, hoàng tử. Tùng Thiện vương xuất phủ ở ngang với phủ Tuy Lý vương, tại phường Liêm Năng trong Kinh Thành, phía đông Lục Bộ…”
Phường Liêm Năng nay thuộc phường Thuận Thành trong Thành Nội. Địa điểm thiết lập phủ đệ hai anh em Tùng Thiện, Tuy Lý ở phía sau và đối diện với Tam Tòa. Trước năm 1815, chỗ Tam Tòa là phủ đệ của hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm, con trai thứ 4 của vua Gia Long. Nơi đây thuộc phường Đoan Hòa, năm ấy hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm được tôn phong làm Thái tử vào ở cung Thanh Hòa trong Tử Cấm Thành, năm 1817 nhường lại cho em ruột cùng cha khác mẹ là hoàng tử Nguyễn Phúc Chẩn làm phủ đệ.
Tiếc thay người có tài và chí hiếu như hoàng tử Chẩn, con trai thứ 9 của vua Gia Long lại mất sớm lúc mới 22 tuổi. Sau vua Minh Mạng đã truy phong cho Thiệu Hóa công Nguyễn Phúc Chẩn là Thiệu Hóa quận vương.
Theo học giả Phan Văn Dật, năm 1839, Minh Mạng thứ 20 nhà vua “nhớ kiếp trước mình là thầy tu” cho nên sai dựng chùa Giác Hoàng. Vua cấp cho con trai của Thiệu Hóa quận vương là Thiệu Khuê ở chỗ khác.


* Như chính sử nhà Nguyễn đã ghi chép về phủ đệ
Phủ đệ là thuật ngữ được in bằng đề mục với co chữ lớn trong bản Mục lục cuối sách Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) đã được dịch ra Việt ngữ.
Bản soạn dưới triều vua Tự Đức, ấn hành trước năm 1875 phải mất gần 10 năm mới hoàn chỉnh. Viện Sử học đã dịch tại trang 52 và 53 cho biết phủ đệ gồm 5 cơ sở: nhà Đoan Bản, nhà Chí Thiện, nhà Phúc Thiện và phủ đệ các thân công, đệ trạch các công chúa.
Lối viết sử xưa thật là uẩn súc, lời ít mà nghĩa sâu rộng. Dịch từ “đường” là nhà thì hơi ép nếu không nói là gượng gạo. Đọc hai nửa trang sách số 52 và 53 thì dễ nhận ra hình ảnh, bóng dáng của phủ đệ và đệ trạch sai khác nhau như thế nào.
Phủ đệ là nơi ở của các thân vương, thân công, thái tử, hoàng tử đã được tôn phong sau khi đã trải qua một khóa thi gồm 3 kỳ. Đệ trạch là nơi ở của các công nữ, hoàng nữ đã được tôn phong là công chúa đã được gã chồng. Con rể của nhà vua là Phò mã, con dâu là Phủ thiếp.
Cũng ở trang mục lục, sách ĐNNTC, tập Kinh sư, có bài Tựa để rõ ngày 8 tháng 12 năm Duy Tân thứ 3 (1910) ở trang số 1; Còn phần viết về phủ đệ chỉ ghi 3 cơ sở: Đường Đoan Bản, Đường Chí Thiện và Đường Phước Thiện liên quan đến chốn Tiềm để của ba vua: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Tuyệt nhiên bản ĐNNTC thời Duy Tân không chép rõ ràng địa điểm, kiến trúc và biển ngạch đã quy định rõ ràng như bản thời Tự Đức
1. Phủ đệ các thân công: Ở phía tả trong Kinh Thành, nhà chính và nhà trước đều 3 gian 2 chái, biển ngạch cửa đề chữ: “Mỗ công phủ” (Phủ đệ thân công mỗ).
2. Đệ trạch các công chúa: Ở phía hữu trong Kinh Thành, thể chế cũng như phủ đệ các thân công, biển ngạch cửa đề chữ: “Mỗ công chúa đệ”.
“Mỗ” hàm ý sẽ ghi tước phong vào cho đầy đủ mới hợp cách xác định cơ sở có chủ nhân là ai. Thông lệ, lấy tên huyện của các tỉnh để chọn đặt tên cho từng phủ đệ hoặc đệ trạch của từng hoàng tử hoặc công chúa.



Sách Đại Nam thực lục chính biên (ĐNTLCB) đã kê ra hàng loạt tên gọi phủ đệ của từng thân vương, hoàng tử:
- Tháng 8 năm Đinh Sửu (1817): phong Thúc Quận công Tôn Thất Thăng làm Phúc Long công; hoàng tử thứ 5 là Đài làm Kiến An công; hoàng tử thứ 6 là Bính làm Định Viễn công; hoàng tử thứ 7 là Tấn làm Diên Khánh công; hoàng tử thứ 8 là Phổ làm Điện Bàn công; hoàng tử thứ 9 làm Thiệu Hóa công; hoàng tử thứ 11 là Cự làmThường Tín công; cho sách bạc, ấn bạc và ấn quan phòng mỗi người một cái. Ra lệnh tờ biểu, tờ khải đều xưng tước và tên. (Biểu tâu thì Phúc Long công thần Mỗ; của hoàng tử,hoàng tôn tước công thì xưng Mỗ công thần mỗ. Khải thì xưng Mỗ công, điệt mỗ). Giấy tờ các nha đưa lên thì xưng là bẩm. NHÀ Ở THÌ GỌI LÀ PHỦ.





Như vậy, chính sử còn mở ra những góc nhìn về hình ảnh và thực trạng của phủ đệ. Tháng 2 năm Ất Hợi (1875) Vinh Lộc quận công Miên Tri (Chi) vay nợ ở nghĩa thương 1.000 quan tiền để sửa chữa phủ đệ (Nghị trước định: hoàng thân sửa chữa phủ đệ, cho vay 1.000 quan, hàng năm trả nợ 300 quan tiền). Mới 1 tháng đã huy hoắc hết cả, lại xin lỉnh lương trước 2-3 năm, quan Tôn Nhân Miên Định lấy lý răn bảo, sợ không phục tình, bèn đem việc ấy hặc tâu.
Phủ đệ là cơ nghiệp và tài sản của hoàng tử, là của tư khác nào trong dân gian cha mẹ cho con trai ra ở riêng để tự lo liệu lấy sự nghiệp cỏn con của mình làm đà tiến lên.
Tháng 7 năm Mậu Dần (1818), vua Gia Long định điều cấm về Kinh Thành gồm 26 điều răn dạy, trong đó điều 12 liên quan đến phủ đệ, cụ thể như sau: “Phủ đệ của hoàng tử, hoàng nữ, nhà ở của các quan văn võ nhất nhị tam tứ phẩm, đều chọn một người làm thư dịch xem xét đường quan về phần đất sở tại và ghi rõ điều cấm để bảo vệ người nhà”.
Từ chính sử cho đến các sách biên khảo ngày nay liên quan đến sinh hoạt cung đình, hoàng tộc Nguyễn Phúc đều khẳng định: nơi ở của các hoàng thân, hoàng tử lúc sinh tiền gọi là phủ, công phủ, vương phủ; nơi ở của các công nữ, công chúa lúc đã gả chồng và được tôn phong gọi là đệ, đệ trạch và việc đi lập phủ gọi là “xuất các” hoặc “xuất phủ”. Nơi ở của các hoàng tử, công chúa trong đời người nhất thiết không phải một địa điểm nhất định mà có thể thay đổi. Thông thường nơi ở sau cùng mới ổn định để thành chốn phủ đệ, đệ trạch mà có khi tùy theo văn cảnh, cách nói người ta quen gọi chung là phủ đệ cho gẩy gọn. Các cụ xưa khuyên người đọc sách nên “tinh mắt” để mà nhận ra nghĩa lý.
Cụ ông và cụ bà Vĩnh Ngô đều thọ đến trên dưới 90 tuổi. Cụ ông là hậu duệ của hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Thủ, con thứ 9 của vua Minh Mạng, có phủ ở ấp Xuân An, làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, và về sau dời về phường Phú Hội, đường Nguyễn Công Trứ, biển hiệu nơi thờ ngày nay là Hàm Thuận công từ. Cách một bức vườn của thường dân là nơi thờ An Thường công chúa (chị ruột của Hàm Thuận công):
Con đường trưa nắng gió hiu hiu
Ngây ngất người qua, tiếng sáo diều
Đây chốn An Thường công chúa nghỉ
Lưng chừng khóm trúc dáng liêu xiêu
(Đồng Di Đỗ Hà)
Vườn chị gần bên nhà em, phía trước là đường Chợ Cống, phía sau là sông Thọ Lộc rẽ lối ra sông Hương. Một bên là phủ, một bên là đệ.
Đệ không phải là em mà là chữ gọi tắt của đệ trạch. Cụ Vĩnh Ngô cho biết lúc nhỏ cụ đã từng sống ở đây trong tình nồng ấm “nội ngoại tương tề”. Mỗi lần phủ và đệ cúng Thổ thần, cụ ông nghe rõ, thấy rõ văn sớ viết tên gọi hai bên khác nhau: bên phủ Hàm Thuận là “Phủ đệ tôn thần”, bên An Thường công chúa từ là “Đệ trạch tôn thân”. Về mặt lý nghĩa chính thống là rạch ròi như thế. Còn về mặt dân gian, trong ngôn ngữ nói thì người ta quen gọi chung là “Phủ từ” vì chủ nhân ông, chủ nhân bà đã mất.



* Đền thờ bên ngoại nhà vua
Chữ “phủ” và chữ “từ” thật lắm nghĩa, rộng đường trong thuật ngữ cung đình lẫn ngôn từ dân gian. Đền thờ bên ngoại nhà vua được gọi là “từ”. Bên bờ sông Hương kể từ chùa Linh Mụ đi về phía cầu Bạch Hổ các đền thờ: Vĩnh Quốc công từ, Diễn Quốc công từ, Qui Quốc công từ, Thọ Quốc công từ, Phước Quốc công từ, Đức Quốc công từ… Chữ “từ” được dịch là “đền” và được quốc sử biên chép vào mục Quán từ xếp chung cùng với các đền Quan Công, Thiên Phi, Tiên Y, các đền thờ có liên quan đến sơn lăng, các phi tần… thậm chí đến Thiệu Hóa quận vương Nguyễn Phúc Chẩn như đã nói ở phần đầu bên trên bài viết này. Thật là “nhiêu khê” về nghĩa lý của các từ “phủ” và “từ” trong ngôn ngữ Việt.
Thế thì không thể ghép buộc 6 đền thờ này là phủ đệ như báo chí đã viết và lấy hình ảnh cả nhà vườn Lạc Tịnh Viên ở đường Phan Đình Phùng, nhà vườn An Hiên của bà Tuần Chi nhũ danh Đào Thị Xuân Yến… để minh họa cho bài viết khiến cho đọc giả trẻ tuổi, nhất là sinh viên học sinh ngày nay khó hiểu?
Phủ đệ đời nhà Nguyễn kế tục, tiếp nối và phát huy truyền thống giòng tộc của vương phủ, hoàng gia có kỷ cương, tôn thống từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, sửa sang đô ấp, tiền thân của Kinh Thành Huế. Ngày xưa dưới thời Nguyễn, Tôn Nhân phủ trực tiếp quản lý và điều hành các phủ đệ ở kinh đô và các huyện để kỷ cương phép nước được giữ vững cho nên tránh được nạn lộng hành do quyền thần kết hợp với thế lực hoàng gia bất chính, thậm chí cả thế lực bên ngoài nước lũng đoạn thừa lúc nước đục béo cò. Thời “tứ nguyệt tam vương” sau khi vua Tự Đức về chầu tiên đế đã khiến cho sơn hà xã tắc chao đảo, ngã nghiêng: không những hoàng gia chóng suy sụp mà bách tánh phải chịu cảnh quốc phá gia vong.
L.Q.T.
CHÚ THÍCH ẢNH
Ảnh 01: Phủ Tùng Thiện vương
Ảnh 02: Phủ Tuy Lý vương
Ảnh 03: Phủ Vĩnh Quốc công
Ảnh 04: Phủ Khải Uy Trung Hưng Hồng Cơ
Ảnh 05: Phủ Phong Quốc công

Bài và ảnh từ trang www.covathue.com
READ MORE - LÊ QUANG THÁI - PHỦ ĐỆ DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN

Friday, October 29, 2010

NGUYỄN PHÚC BẢO CHÂU - ĐỒNG HIỆN "GIÓ CUỐI MẶT SÔNG"



Thơ cũng như tình yêu đem đến phép màu hoá hiện những ngọt bùi trải nghiệm cuộc sống. Có lúc tinh khôi như buổi sớm mai thức đón bình minh, cũng có khi vô tình như ngọn heo may mang hình bóng dịu dàng đi về cuối mặt sông và trở lại gieo vào ta một ngọn gió khác, như niềm đau tấy lên những buồn vui kiếp người. Cuốn vào ngọn gió mải mê đi tìm ấy, tôi bắt gặp nhà thơ Võ Văn Hoa trên chặng đường của "gió cuối mặt sông" tràn lên yêu thương và khát vọng, dù ở đấy không thiếu sự chia sẻ hao khuyết nhằm vào những số phận.

Gió cuối mặt sông

sẻ sàng đồng vọng

Lời của gió đôi khi vô tình

Có thể làm ta quên dặm dài cố lý

(Gió cuối mặt sông)

Chạm vào tất cả, ngọn gió mong manh là thế, dữ dội nhường kia nhưng luôn giúp ta nhận ra vô vàn những trạng thái nhân thế. Có khi phải để lòng mình lắng nghe "siêu âm" từ cái vỗ cánh của bướm vàng bay:

Thơ thẩn một chiều dạo phố

Tìm hoài loài hoa móng tay

Hoa vút như màu hồng sáo

Theo về cánh bướm vàng bay

(Hoa móng tay)

hay khi:

Cánh chuồn bay trong thơ

Cũng ngân vang tiếng sóng

(Thơ tình)


Từ "nghịch lý ở Cửa Đại", ngọn gió xuân tình tụ thành mắt bão:

Con gái Việt chăm sóc làn da

Con gái Tây nằm phơi dưới nắng

Ở hàn đới nên da em trắng

Để cho anh nhiệt đới chết thèm

(Nghịch lý ở Cửa Đại)


Miền xúc động lớn nhất có lẽ là "cơn bão nhớ" quê nhà:

Vắng âm thanh những chú ếch đồng

Những giun dế, côn trùng muôn thuở

Đêm thị trấn mùa mưa đầu khó ngủ

Sao nhớ hoài da diết một vùng quê!

Nhớ cuống rạ, dấu chân người lặn lội

Mùi cốm thơm trên nẻo đường làng

Dáng mẹ hao gầy vào ra sớm tối

Gậy khua vào bảng lảng hoàng hôn

(Bão)


Đấy là cơn bão chất chứa nỗi niềm lắng đọng, sau thanh tẩy nhọc nhằn bụi đất dặm trường. Cả những lúc ta bắt gặp người thơ như con ong say mê tìm mật rù rì bay trong heo hút mây ngàn gió núi cho yêu thương đậu xuống vai người:

Krông Klang mai tôi giã bạn xa người

Em hãy hát lên - dàn đồng ca gió núi

Cho ché rượu cần nghiêng

Cho mềm môi lữ khách

(Lên Krông Klang)

Và một khi yêu thương bọc kén, nhà thơ say trong nhiệt tình nhiệt tâm nhiệt huyết và vì thế, dễ hiểu vì sao hồn thơ gụi gần thân thuộc đời sống làng quê được chấm phá bằng mấy nét mà khảm vào trí nhớ người đọc:

Người dân làng Rào

Khách khí mần chi cho mệt

Sống tung tẩy cho đời vui

Như giăng lưới bắt chim trời

(Làng Rào)


Trong cái chảy trôi của dòng đời, có mấy ai để lòng ba động với những gì bắt gặp? Nhưng thi sĩ thì "trời bắt" vướng bận với cả kiếp lãng đãng huyền phiêu của tơ trời. Với tác giả "Gió cuối mặt sông", cuộc sống hiện hữu quanh mình luôn được bồi đắp từ suối nguồn nhân văn oà vỡ cảm xúc. Vì thế, thơ Võ Văn Hoa tươi sáng mà gan ruột, lửa tâm mà mát dịu. Bản thân nó là âm bản của con người anh. Đó là sự giàu có của tâm hồn đa mang, chia sẻ buồn vui, hạnh phúc trần thế. Cho nên, vành vạnh một chiếc nón đội sương nắng, luỵ tình giấu trong vòng sóng cuộc đời lại được neo bằng một tứ thơ "giản dị, xúc động và ám ảnh" (chữ của Trần Đăng Khoa) trong "làng nón":

Mười sáu vành trăng em mười sáu

Tiếng cười làng nón khuyết vào đâu

Thăm làng mấy bữa muôn đời nhớ

Ai để bài thơ nắng lợp đầu

(Làng Nón)


Dưới mái tình của "gió cuối mặt sông", ta gặp cơ man là tình tự trên những nẻo đi về trong thơ tác giả. Từ phiên chợ chiều dóng lên một chút râm ran rồi trở về trong cái mênh mang làng quê dội vào lòng anh nỗi day dưa khó dứt:

Đất nước có nhiều phiên chợ lạ

Có người đến thấy lòng mình thanh thản

Có người đến thấy phận mình xót đắng

(Chợ Hôm)


Một đồng nghiệp gắn bó bên anh "những tháng năm dài gian khổ chia nhau", trong "tình bè bạn men nồng thức trắng" đột ngột ra đi giữa lúc khát vọng tuổi trẻ chất ngất đã gây thổn thức đồng cảm bằng những câu thơ thấm đẫm:

Trên đường làng, mình gặp những chim ri

Mắt ngấn lệ nhớ thầy chừng muốn khóc!

Bạn nằm xuống giữa những ngày dạy học

Từng trang đời mới mở - đã chia ly

(Cho người nằm xuống)

Khởi nghiệp là nhà giáo và sau đó làm quản lý, anh thấu nỗi nhọc nhằn "khổ học" của tuổi thơ lấm láp bùn đất đến trường và thiên chức ươm mầm, chăm nụ không quản khó khăn của người mẹ tâm hồn:

Về Càng mới thấy càng khổ học

Lội bùn cô giáo đến trường xa

Yêu thương con trẻ đâu còn nhọc

Những mầm, chồi, nụ biến thành hoa

(Về Càng)

Điều đáng nói là nhà thơ lần nữa giúp ta soi thấy "qua lòng em nghe hạt nẩy mầm" - từ thiên lương ngời sáng điều giản dị:

Những giáo cụ xếp đều ngay ngắn

Ấp ủ dần như hạnh phúc tháng năm

(Bông hoa đỏ)


Cuộc sống "tự nhiên nhi nhiên" qua con mắt thơ luôn được hồi quy trong vẻ đẹp hướng thiện, hướng thượng, hướng mỹ nhưng lại biến hoá màu sắc, trạng thái và tính chất nhờ linh hoạt chuyển dịch điểm nhìn và kiến tạo sự giao thoa nội cảm với ngoại giới. Do đó, sở đắc được phát huy trên nền hiện thực phong phú, đa chiều. Điều này lý giải vì sao "gió cuối mặt sông" tập trung, xuyên suốt trong một số đề tài nhưng không hề làm giảm sức lay động đối với người đọc.

Thế giới nghệ thuật thơ Võ Văn Hoa đồng hành, đồng hiện, đồng cảm cuộc sống hồ như không thể tách rời. Nhà thơ không thiếu sự thăng hoá để tạo cho thơ vỗ cánh nhưng đó là sự bay bỗng của cánh diều no gió yêu tin bởi biết mình cất lên từ mặt đất. Cho nên, dù viết gì, về ai, từ đâu, tác giả luôn để cho sự tươi rói của cuộc sống tự nói lên. Ngay cả nỗ lực đổi mới thể hiện trong một số bài thơ như Í a xuân, Quà tặng, Tình ca Ô Lâu, Email xuân... đem lại hiệu quả nghệ thuật khá rõ cũng được lựa chọn như chính thơ và đời sống không ngừng đi tới cùng trái tim của ngọn gió đập nhịp thanh xuân.

Thơ đi ngang, còn em thì đi dọc

Em và thơ ngang dọc suốt đời tôi


Không còn nghi ngờ gì nữa. Chúng ta tin ở tác giả, ở thiên sứ tình yêu làm nẩy những hạt thơ theo gió bay về miền nhân gian làm chứng.

Nguyễn Phúc Bảo Châu

READ MORE - NGUYỄN PHÚC BẢO CHÂU - ĐỒNG HIỆN "GIÓ CUỐI MẶT SÔNG"