Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, June 22, 2020

SÔNG - Thơ Trần Mai Ngân





SÔNG

Sông hôm nay đầy lắm
Chở nỗi buồn em đi
Có một cánh chim Di
Cũng vừa bay qua bão

Một nhánh hoa Lục Bình
Dập duềnh còn sót lại
Cứ miên man khờ dại
Đi tìm bến bờ xưa...

Trưa hôm nay giăng mưa
Trắng nơi ta hò hẹn
Xoá dấu ngồi năm xưa
Cho trôi vào quá khứ...

Sông hôm nay đầy lắm
Thuyền thì cứ xa xăm
Đôi bờ lỡ âm thầm
Một vết trầm thiên thu...

Sông hôm nay đầy lắm
Chở nỗi buồn em đi
Có một cánh chim Di
Cũng vừa bay qua bão...

            Trần Mai Ngân
                7-6-2020

Hôm qua một ngày mưa tôi về lại bến sông... tháng sáu!

READ MORE - SÔNG - Thơ Trần Mai Ngân

ĐỘC ẨM, SẦU QUÊ - Thơ Nguyên Lạc





ĐỘC ẨM

Dallas tìm đâu người tri kỷ?
Để ngất cùng ta khúc Hồ Trường
Nhìn quanh nhìn quất cao ốc Mỹ
Rượu uống mình ên có đau không?


SẦU QUÊ

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu” [*]

Chiều xuống vời quê nơi nao hở?
Đèn Cali xanh đỏ phát rầu
Trên sông khói sóng nơi đâu tỏa?
Ở đây cao ốc dựng bóng sầu

Tri kỷ nhìn quanh… một tiếng thở!
Rượu uống mình ên có sao đâu?

                                   Nguyên Lạc

…………

[*] Trời về chiều muộn, tự hỏi quê nhà nơi đâu?/ Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn! – Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu

READ MORE - ĐỘC ẨM, SẦU QUÊ - Thơ Nguyên Lạc

CHÙM ẢNH HOA FUCHSIO CỦA CHU VƯƠNG MIỆN







READ MORE - CHÙM ẢNH HOA FUCHSIO CỦA CHU VƯƠNG MIỆN

Sunday, June 21, 2020

TỰ KHÚC THÁNG SÁU - Thơ Nhật Quang






TỰ KHÚC THÁNG SÁU

Tháng Sáu về vương ngọn gió dịu êm
Trời giao mùa ươm lên màu xanh lá
Khúc tự tình ta nghe chợt xa lạ
Xuân còn hương để ru ngát con tim?

Tháng Sáu về thơ thẩn mãi đi tìm
Vần yêu đương ghép vào đầu nỗi nhớ
Mênh mông lắm hai phương trời cách trở
Còn trong nhau chút say đắm tình thơ

Tháng Sáu về ươm lại những mộng mơ
Lên môi mắt long lanh người xưa ấy
Một chiều Thu đánh thức tim ta dậy
Hồn chơi vơi theo cánh lá vàng bay

Tháng Sáu về còn thoảng chút hương say
Cơn nắng nghiêng đưa Hạ về qua ngõ
Chiều tan trường áo dài bay trong gió
Góc phố buồn, ta ngơ ngẩn…tìm ai?

                                     Nhật Quang

READ MORE - TỰ KHÚC THÁNG SÁU - Thơ Nhật Quang

KHOẢNG LẶNG TÂM HỒN, THEO DẤU CHÂN TRẦN - Thơ Văn Thiên Tùng





KHOẢNG LẶNG TÂM HỒN

(Riêng tặng các bạn 2 lớp 11C&10A3 
Nguyễn Hoàng Non Nước, Đà Nẵng)

Thương phượng lắm - Phượng mùa hè năm ấy!
Cùng nỗi đau ly tán bởi chiến tranh
Tất tả di dân câu chuyện chẳng đành
Phượng nằm lại - ta lạc vào xứ lạ

Trại tạm cư lắm điều không kể ngạ
Mì gạo cấp đến nhận lại ăn nằ
Phòng học chia - ván chắn với nền băm
Trò đi học tay nách xách chiếc ghế

Cảnh trường lớp lúc này là như thế!
Chẳng khuôn viên bàn ghế lẫn sân chơi
Nay phòng này - mốt dãy nọ chuyển dời
Nhà ở chỉ một góc ô chắn nhỏ…

Hè ở đây không sắc màu phượng đỏ
Chẳng hề nghe dù một tiếng ve ngân
Nắng chói chang như thiêu đốt ngoài sân
Đường nhựa nóng cát xới tung nồm ngát

Ngày cuối khóa rộn vang lời ca hát
Nào đồng ca nào phần thưởng tặng khen
Tiếng tau mi tên họ vốn từng quen
Từ cửa lớp gắn kết nhau nào tả xiết

Tập lưu bút lẹ làng chuyền tay viết
Gởi chút gì đọng lại với thời gian
Giữ bao nhiêu tình cảm sáng trong ngần
Vùng kỷ niệm dọc dài theo nét bút

Phút chia tay ai nào không sùi sụt
Chín tháng rồi - sao nhanh quá thế vầy
Bọn chúng mình vổ cánh kể từ đây
Người trở lại quê  - người hoài viễn xứ


Những chuyến xe chẳng chút nào do dự
Lăn bánh đưa dân Quảng đến muôn phương
Lại chở theo tên đất lẫn tên trường
Nguyễn Hoàng- Bồ Đề - Thánh Tâm - Đắc Lộ

Dân về quê giữa hoang tàn sụp đổ
Người vào Nam lập ấp kiếp lưu dân
Người tỉnh này - kẻ chốn nọ xa gần
Cuộc sống mới giữa muôn vàn gian khó

Tuổi chúng mình ngày xưa là thế đó
Rất vô tư và quá đỗi thân thương
Năm tháng qua đồng chung một mái trườn
Bao kỷ niệm ngùi ngùi hoài lắng đọng…

Bài tình ca lời ai hoài vang vọng
Lá thư tình trau chuốt ý thiệt hơn
Nhét vào cặp… ấy đọc nhẹ “nguýt hờn”   
Nên chúng bạn cặp đôi thật “đỡ chết”…

Sau giờ học chụm đầu nhau tán phét
Học hết mình giành điểm cố tranh đua
Nữ hay nam cứ thế chẳng chịu thua
Nên luôn được thầy cô khen ngưỡng mộ

Lắm câu chuyện không thể nào hé lộ
Của lớp mình ngày ấy mười một xê
Trường Nguyễn Hoàng hai buổi cứ đi về
Hẳn sâu lắm!  tình thầy cô - bè bạn…

Nhóm Diễm Trang - Mười A thường ghép gán
Với lớp Xê dùng thun bắn thư qua
Trên đường về hùa nhóm lại chọc đùa
Ta đỏ mặt chỉ biết cười nhìn nớ…!

Chuyện học trò dại khờ chừ nhơ nhớ!
Bao mến yêu trên lăng kính xanh hồng
Bao nhớ thương thoang thoáng lẫn hương nồng
Mãi còn đó chẳng bao giờ nhòa úa.

                                       Quảng Trị, 15.6. 2017
                                      Mai Vân Văn Thiên Tùng




THEO DẤU CHÂN TRẦN

Những dấu chân trần hằn in đây đó
Mỗi sớm tinh mơ hay những trưa chiều
Kể sao xong với đủ chuyện muôn điều
Xuyên suốt cả Thu - Đông cùng Xuân-Hạ.

Mỗi hửng xuân sương phủ mờ lụm lá
Tụi chúng mình đi học chẳng quên mang
Cái vợt hóp* men theo khắp nẻo làng
Vớt mành nhện rồi úp chuồn chuồn tướng

Con chuồn tướng đẹp kia nào chịu vướng
Chẳng mấy con để ta bắt được nào
Những bụi cây lắm quả trái ngọt ngào
Cho vào miệng ngon lành thật thấm thía

Nào chuông chuổng từng chùm màu tím tía
Cà gai xanh vàng đỏ lủng lẳng treo
Bòng bong hồng, đùm đũm chín cố khèo
Lắt lẻo đấy chùm thù lù ngây mọng…

Bụi dây vằng từng chuỗi quả đen mòng
Ăn vào thôi tím ngắt miệng cùng môi
Chuyện về cây trái dại thuở thiếu thời
Thi nhau vặt theo bốn mùa đơm quả…

Đều gặm chửng thay thức ăn trừ bữa
Từ ngọt, bùi, chan chát lẫn chua cay
Cứ theo nhau từng nhóm suốt cả ngày
Lắm khi lại say mèn vì ham chén

Nhưng hạt trơng hái về làm phoóc bắn
Không có trơng leo hái quả bời lời
Cả trưa hè tụm trước ngỏ đùa chơi
Bắn đì đạch bởi chù ke - súng chuối

Cứ chia phe tha hồ reo rượt đuổi
Chán ngấy rồi bày trò khác vui hơn
Nắp keng lia - thuốc mít tán - vụ lăn
Ném đồng kẽm - đôi long hay dép táng

Lắm trò chơi chẳng trò nào chán ngán
Cứ luân phiên theo bước trẻ xa gần
Cứ theo nhau muôn nẻo chẳng ngại ngần
Rất thuần thục trước ngày ta khôn lớn

Dẫu giờ đây vốn việc vàn bề bộn
Vẫn không quên một thuở bước chân trần
Đạp bụi tre, leo trèo thịt da banh
Chẳng biết đau hay khóc nhè trước bạn

Bao lần ngã té đau hay trúng đạn
Vẫn gượng cười chẳng trách mắng bạn đâu
Chui vào rơm - xót xáy tận đến đầu
Suốt đêm vẫn trốn tìm dầu bị mắng

Tuổi thơ ơi! Thuở quê nhà yên ắng
Bao khu vườn đầy mít, ổi, khế, chanh
Những hàng cau, giàn bí, mướp rờn xanh
Mỗi hoa trái theo từng mùa cho quả

Mỗi sắc hoa tạc nền thêu nhung lụa
Đơm hương thơm ngát tỏa mỗi chiều tà
Từ xoan - cau, lý - bưởi rộ tứ mùa
Hằn ngâm ngấm trong ta từ tấm bé. 

                             Quảng Trị,19.6. 2017
                                 Văn Thiên Tùng

*Là cây hóp thon nhỏ dài trên 1m, thân nhỏ bằng ngón tay, ngọn hóp uốn cong thành vòng tròn để quơ cá ổ mạng nhện đang ướt đấm sương trên từng sợi tơ thành một cái mạng để bắt chuồn chuồn

READ MORE - KHOẢNG LẶNG TÂM HỒN, THEO DẤU CHÂN TRẦN - Thơ Văn Thiên Tùng

VIẾT VỀ NGƯỜI BA CỦA TÔI - Lê Phước Sinh





VIẾT VỀ NGƯỜI BA CỦA TÔI 
FATHER' S DAY -  21 tháng 6. 2020
                                                            Lê Phước Sinh

Chiếc xe đạp giàn ngang, màu xanh nước biển buổi sáng đưa con đến trường Tiểu học Trần Quốc Toản trong Nội Thành.
Tan việc, vội vội vàng vàng, Ba chờ đón con bên hàng Phượng trước cổng.
Trưa Hè trời nắng chang chang
Sáng Đông se lạnh u u âm âm gió buốt
Ngày ngày.
Năm, sáu năm đi học trường xa , Ba là Bạn - Cùng -  Lớp,  luôn  thấp thoáng cạnh con ngồi...

Ba sinh năm 1920 (Tân Dậu) tại làng Thượng Xá, Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Gia đình có 4 anh chị em : “Lực - Điền - Viên - Cận”. Ba là con út. Khu vườn nằm ngay trên đường quốc lộ 1 (cũ) bên cạnh hói nước chảy qua Cống Lở về dòng sông Nhùng. Là vùng đất bồi nên vườn khá tốt, cây trái quanh năm hoa quả xanh tươi. Gia đình thuộc diện “tiểu nông”  sống cần kiệm, chu tất. Cách nhà khoảng cây số là nhà thờ La vang.
Thuở thiếu thời Ba đi học ở lớp tư trong làng (bác Giáo Châu), sau đó xin vào học Trường Tiểu Học Công Lập, cho đến khi thi đỗ bằng “Sơ học yếu lược” thì nghỉ. Lúc bấy giờ Ba đã có một số trình độ cơ bản về tiếng Pháp, Hán. Phụ việc đồng áng cùng gia đình một thời gian. Khoảng năm 1940, Ba mua vé xe lửa, một túi hành lý xuôi vào Nam tìm công ăn việc làm... Xuống Quảng Ngãi, tại ga Bồng Sơn, Ba được nhận vào phụ việc. Những công việc nặng nhọc vất vả cần sức trai trẻ, nhanh lợi... Ba đều vào cuộc... Cũng có lúc làm việc “bẻ ghi” tại Ga (tàu), có khi cầm Đèn Gió đi tuần đường rail giữa đêm khuya, mưa lạnh... Ba chính thức là công nhân ngành hỏa xa của Pháp thuộc Liên Khu 5, luân chuyển trong địa bàn Nam-Ngải.

Ba là người khéo tay và sáng dạ, cần kiệm... ngoài giờ, Ba thường nhận làm thêm gò, chữa các nông cụ, đồ dùng gia đình... như lưỡi cày, cuốc, dao, rựa, liềm, xoong nồi, ấm nước... Về mộc, Ba có thể cưa bào, đóng bàn ghế... Về điện, có thể những sửa chữa những động cơ vận hành không quá phức tạp... Vì vậy Ba được nhiều người thương quý, giúp đỡ.
Sau thời Pháp rồi Nhật. Hiệp định Đình Chiến 1954 ký kết, Ba quyết định về lại quê Quảng Trị. Tháng 03. 1955, Ba vào Huế, xin việc làm. Điều kiện: trong độ tuổi phải đi quân dịch. Nhập ngũ, sau mấy tháng huấn luyện, Ba được tuyển vào Quân Vận, học tài xế, đóng tại  “Bồ-ghè”. Cuối tháng 12, lập gia đình. Trong trận bão mùa đông 1957, khi cùng anh em che giữ mái tole của doanh trại,  Ba bị té, chấn thương, phải chuyển vào quân y viện Duy Tân, Đà Nẵng chữa trị.

Trong hai năm 1956, 1957...  Ba mua sách, tự học chương trình lớp nhì, lớp nhất rồi đi thi lấy bằng Tiểu Học, theo dạng thí sinh tự do, đỗ khóa 1957.
Tháng 12, 1958  được đưa ra Hội Đồng Giám Định Y Khoa xét, cho giải ngũ với giấy chứng nhận “Phế Thải Vĩnh Viễn Số 2”.
Tháng  02.1959, Ba viết đơn và được nhận vào làm tài xế cho Tòa Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, thường lái chiếc xe màu xanh 12 chỗ ngồi, đưa đón giáo sư và sinh viên đi công tác, thực tập. Giúp đỡ, hướng dẫn Ba chân tình, gần gũi là Bác Nguyễn (văn) Trường - Chủ sự Phòng nhân viên, người cùng quê  Quảng Trị, từ giai đoạn đầu và  thân thiết mãi đến sau nầy. Đầu năm 1964, Ba chuyển công tác từ tài xế ở Tòa Viện trưởng về Trường Đại Học Khoa Học Huế làm công tác Tống Thư Văn (giao nhận công văn, thư từ)  đến tháng 5.75 ; sau  đó  chuyển làm công tác bảo vệ  cho đến giữa những năm 1980.

BA là người  mẫu mực về  việc học hành, của  các con: giờ giấc theo đúng quy định. Trong phòng học của gia đình, mỗi người có một vị trí riêng, trước mặt là bản Thời Khóa Biểu dán  giấy, sách vở cặp táp  đồ dùng đặt gọn gàng, bao bọc chỉnh chu, không được quăn góc, nhàu  nát . Giờ học bắt đầu thường buổi sáng sớm, chừng độ 5 giờ, khi học phải đọc lên trọn thanh âm, dù nhỏ nhẹ, câu chữ rõ ràng. Ba bảo: buổi sáng thức dậy, đầu óc còn “thanh khiết”  dễ dàng “nhập tâm”. Học bài cũ hôm trước để  khi lên lớp Cô Thầy dò khảo, kế xem sơ bài giảng trước để xem hôm nay sẽ học cái gì... Ba  còn dặn, sau giờ học ở trường về, nghỉ mệt một chút, lấy cặp sách vở ra, xem qua “còn mất, thiếu, đủ” lời dặn dò, bài tập về nhà của  Thầy Cô...

Khi các con học ở trong, bên giường ở phòng kế, Ba ngồi hút thuốc, đôi lúc nghe radio, với thanh âm nhỏ, như ngồi cùng để  “đồng hành” với các con. Những đợt nghỉ dài ngày: hè, tết Ba ra bài tập  con cái làm thêm :  Toán pháp trong sách trong sách Trần Tiếu, Cao Văn Thái;  luận văn, tập làm văn với các đề: ca dao , tục ngữ , thành ngữ , Ba  biết  một số  căn bản  về tiếng Pháp, tiếng Hán, thỉnh thoảng Ba  giảng giải cho các con, tạo  những “ngoại khóa” rất lý thú...

BA đã rời con cháu mấy chục năm nay.
Những kỷ vật như chiếc radio, thẻ nằm viện, bài thơ Ba viết... đặt trên đầu tủ thờ như vẫn vương vấn, gợi nhớ những hình ảnh  ngày xưa...

                                                                   Lê Phước Sinh

READ MORE - VIẾT VỀ NGƯỜI BA CỦA TÔI - Lê Phước Sinh

CHÙM ẢNH LỰU PHUN LỬA CỦA CHU VƯƠNG MIỆN






 

READ MORE - CHÙM ẢNH LỰU PHUN LỬA CỦA CHU VƯƠNG MIỆN

MẤY ĐỘ TÀN PHAI - Thơ Phan Quỳ, nhạc Võ Triêm


                                               Nhà thơ Phan Quỳ


MẤY ĐỘ TÀN PHAI

Ta về xếp lại xưa sau,
Vời trông bóng đổ, nhuốm màu thời gian.
Xuân qua rồi mấy thu tàn
Tịch dương mấy bận, vội vàng bóng câu.
Ta về nghe hạt mưa mau
Nghe cơn nắng hạ trên màu mây xanh
Một mai gom lại chút tình
Ta về chăm chút cho mình với ai?
Ngàn lau xa khuất dặm dài
Đâu rày thưa vắng hình hài, dạ vâng?
Tìm trong hơi gió ân cần
Thoảng nghe nhỏ nhẹ một lần hỏi han.
Tìm trong đáy nước vừa tan
Khuôn trăng còn lại muôn ngàn vỡ mau.
Ta về xếp lại xưa sau
Nghe từng rơi rụng nhuốm màu thời gian.
Về đâu lá đổ hàng hàng
Thu sang mấy độ, đông tàn mấy phen.
Hoàng hoa vương lại bên thềm,
Bên song mình nhớ hạt mềm sương bay...

                                               Phan Quỳ





READ MORE - MẤY ĐỘ TÀN PHAI - Thơ Phan Quỳ, nhạc Võ Triêm

Saturday, June 20, 2020

TÌNH THU QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM THƠ TRUNG HOA - Thanh Hòa





TÌNH THU QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM THƠ TRUNG HOA
Thanh Hòa

Mùa thu là mùa thu tóc trắng. Tóc trời bạc trắng vì nhớ thương, tóc người bạc trắng vì khắc khoải. Bao nhiêu u tình ẩn ngữ như sóng chiều vỗ về bến thu phai. Nàng thu như rủ rê lòng tao nhân để được nghe bao lời nhỏ to tâm sự, còn tao nhân như tìm được kẻ tri âm để thổn thức những niềm nỗi riêng chung. Dù đó là mối tình khuê các hay chút nghĩa sơn thôn, tất cả đều cùng với khí thu hòa nên điệu buồn muôn thuở, một điệu buồn đủ mọi cung bậc và triền miên suốt cổ kim.

Ta hãy lắng nghe, trong gió thu xào xạc có cái gì như xót xa:

                       
                       
                       
                       
            Thu phong tiêu sắt thiên khí lương
            Thảo mộc diêu lạc lộ vi sương
            Quần yến từ qui hộc nam tường    
            Niệm quân khách du tư đoạn trường.

            Gió thu xào xạc, không khí trong lành; cây cỏ đung đưa, hơi móc đọng thành sương; đàn én từ từ bay về, chim hộc lượn lờ trời nam; nghĩ đến chàng lưu lạc phương xa mà tan nát lòng.

           Đó là người con gái trong Yến ca hành của Tào Phi thương nhớ lương nhân, đồng thời xót xa cho chính mình. Tại sao phải là mùa thu mà không là mùa nào khác? Người chồng theo việc chinh chiến bấy lâu, vâng, ngày nào thiếp cũng trông nhớ. Nhưng hôm nay, giữa chiều thu mát lạnh, những loài chim tìm chốn bay về. Và đêm đến “minh nguyệt giảo giảo chiếu ngã sàng, Tinh Hán tây lưu dạ vị ương, Khiên ngưu Chức nữ diêu tương vọng”, lòng thiếp lắng dậy cả một niềm chua xót: “nhĩ độc hà cô hạn hà lương”(vì tội tình gì mà (đôi trai gái) phải chịu ngăn cách bởi chiếc cầu trên sông Ngân). Người thiếu phụ lúc này không những xót xa mà còn tràn ngập niềm ai oán.

            Nỗi nhớ mong trong lòng người thiếu phụ quá thường trực, tưởng chừng nó ẩn hiện đâu đây trong gió thoảng:

                吹 不 
              是 玉   
            Thu phong xuy bất tận
            Tổng thị Ngọc quan tình.
                                    (Tử Dạ Ngô ca_ Lý Bạch)

            Gió thu thổi không ngừng, hết thảy đều là mối tình đối với Ngọc quan.

           Mỗi phút mỗi giây, tâm tư của người chinh phụ luôn hướng về ngày hạnh ngộ. Đó là ngày tay bắt mặt mừng ở Ngọc môn quan, ngày khải hoàn. Nhưng rồi nỗi nhớ chẳng phôi phai mà chia ly vẫn biền biệt, tình thu càng trở nên da diết và khôn nguôi trong lòng kẻ đợi mong:

            年 年 陌 上 生 秋 草
            日 日 樓 中 到 夕 陽
            Niên niên mạch thượng sanh thu thảo
            Nhật nhật lâu trung đáo tịch dương.
                                    (Giá cô thiên_ Yến Cơ Đạo)

           Mùa thu của cõi lòng đã tràn ngập năm tháng. Năm này sang năm khác, ngày rồi ngày lại qua, chỉ thấy một màu cỏ úa của thu phai giữa buổi chiều nắng quái. Người phòng the gối chiếc, kẻ chân mây não nùng. Giá cô1 thiên  hay là cõi trời đày đoạ. Nơi đó có mây trời mù mịt, có sóng nước mang mang và chinh nhân thì đường về còn xa quá:

            雲 緲 緲, 水 茫 茫
            征 人 歸  路 許 多 長
            Vân miễu miễu, thủy mang mang
            Chinh nhân quy lộ hứa đa trường.
                                    (Giá cô thiên_Yến Cơ Đạo)

            Nghĩa tình ân ái của mùa thu thật da diết, nó làm quặn đau cõi lòng của bao chàng trai rong ruổi phương xa. Tình ấy là nỗi đợi chờ khắc khoải, là tất cả tấm lòng của cô gái ở lại. Nhưng, nỗi đau ấy bi thương mà không kiêu hùng, thâm thiết mà không bảng lảng khói sương. Vượt lên trên chút tình riêng tư đó, tình thu còn bát ngát hơn, thanh tao hơn và cũng thống thiết hơn.

            Có một lúc nào đó đi về giữa bình yên, lòng thi nhân chợt bắt gặp ý thu chân chất, tình thu vì vậy mà không có sóng dậy, chỉ một thoáng hoài niệm lơ đãng:
            秋 陰 不 散 霜 飛 晚
            留 得 枯 荷 聽 雨 聲
            Thu âm bất tán sương phi vãn
            Lưu đắc khô hà thính vũ thanh.
                           (Túc Lạc thị đình ký hoài Thôi Ung Thôi Cổn_ Lý Thương Ẩn)

            Khí thu âm u, sương chiều chầm chậm. Vẳng nghe tiếng mưa rơi trên lá sen khô.

            Cảnh và tình thật bình yên dù trong đó vẫn có chút lòng vương vấn. Và cũng chính trong cõi lòng bình yên đó mà Lưu Vũ Tích cảm nhận mùa thu, cho nên, thu của ông có cái gì thắng ý. Một bài Thu từ của ông diễn tả niềm hoan lạc đó:
            自 古 逢 秋 悲 寂 寥
            我 言 秋 日 勝 春 朝
            晴 空 一 鶴 排 雲 上
            便 引 詩 情 到 碧 霄
            Tự cổ phùng thu bi tịch liêu
            Ngã ngôn thu nhật thắng xuân triêu
            Tình không nhất hạc bài vân thượng
            Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu.

            Người xưa mỗi lần gặp thu thường buồn thương vì vẻ tịch liêu
            Ta nói rằng ngày thu còn hơn cả buổi sáng mùa xuân
            Bầu trời quang tạnh, một đàn hạc bay vút tầng mây
            Khiến tâm tư của thi nhân bay cao vào vùng trời xanh thẳm.

           Ông bảo rằng ngày thu không buồn như cổ nhân thường quan niệm mà nó có phần vượt trội lên trên vẻ rực rỡ của ngày xuân. Thì đúng là “thu nhật thắng xuân triêu” bởi khí thu lúc này làm rung động những tình cảm cao thượng “đáo bích tiêu”. Nhà thơ cảm thấy dạt dào, chí lớn hội về náo nức.

            Cảnh đẹp là tặng vật của thiên nhiên ban thưởng cho con người, con người phải biết hân thưởng. Hoàng Canh, một thi nhân đời Nguyên, đứng trước vẻ thu tình tứ đó cảm thấy đôi phần xuyến xao như tiếc rẻ cho cái đẹp bị lãng quên: 
         
            十 分 秋 色 無 人 管
            半 屬 蘆  花 半 蓼 花           
            Thập phần thu sắc vô nhân quản
            Bán thuộc lô hoa, bán liễu hoa.
                             (Giang thôn tức sự_ Hoàng Canh)

            Vẻ đẹp mùa thu cả mười phần không ai quan tâm. Để một nửa cho bông lau, còn một nửa cho hoa lục thảo.

Cũng có lúc thu phảng phất một thoáng buồn dìu dịu cho thi nhân cảm nghiệm cuộc đời:

            沅 湘 流 不 盡
            屈 子 怨 何 深
            日 暮 秋 風 起
            蕭 蕭 楓 樹 林
            Nguyên Tương lưu bất tận
            Khuất tử oán hà thâm !
            Nhật mộ thu phong khởi
            Tiêu tiêu phong thụ lâm.
                       (Đề Tam Lư Đại Phu miếu_ Đới Thúc Luân)

            Sông Nguyên và sông Tương chảy không ngừng, nỗi oan của Khuất Nguyên sâu biết bao! Chiều tối gió thu thổi, rừng phong kêu xạc xào.

            Dòng đời trôi chảy, mùa thu lại về như bao thuở nhưng tình thu không còn vẻ hồn nhiên của ngày ấy. Nếu năm xưa trên bước đường lãng du, chàng trai Lý Bạch khi đứng trước cảnh “Nga My sơn nguyệt bán luân thu”chỉ bâng khuâng nhớ tình bằng hữu; thì hôm nay đây, khi lên lầu cao ngắm trăng thu lồng lộng, con người ấy cứ mải đắm chìm trong mối suy tư:

            月 下 沉 吟 久 不 歸
            古 來 相 接 眼 中 稀
            Nguyệt hạ trầm ngâm cửu bất quy
            Cổ lai tương tiếp nhãn trung hy.
                       (Kim Lăng thành Tây lâu nguyệt hạ_Lý Bạch)

            Dưới ánh trăng trầm ngâm mãi không chịu về
            Bao chuyện liên tiếp xưa nay cứ mờ đi trong mắt.

            Con người giờ đây như muốn từ bỏ mọi phiền toái giữa cuộc đời để đi vào cõi trầm tư, từ bỏ chốn quan trường đua chen để thong dong cuộc lữ. Cũng có lúc thi nhân ngậm ngùi cho những cuộc bể dâu như Vương Bột trong Đằng vương các thi:

            閒 雲 潭 影 日 悠 悠
            物 換 星 移 幾 度 秋
            Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
            Vật hoán tinh di kỷ độ thu.

            Hồ yên soi bóng mây nhàn, ngày trôi qua chầm chậm
            Vật đổi sao dời đến nay đã mấy thu.

            Lại có lúc tâm sự thu là niềm nuối tiếc cho thời vàng son giờ chỉ còn dấu tích﹕

            鳥 下 綠 蕪 秦 苑 夕
            蟬 鳴 黃 葉 漢 宮 秋
            Điểu hạ lục vu Tần uyển tịch
            Thiền minh hoàng diệp Hán cung thu.
                  (Hàm Dương thành Tây lâu vãn diễu_ Hứu Hồn)

            Đàn chim sa xuống bãi cỏ là cảnh chiều ở vườn uyển của nhà Tần
            Trên chiếc lá vàng, con ve sầu cất tiếng là cảnh thu ở cung Hán.

            Và tình thu còn là nỗi đau xót trong vẻ lãnh đạm ghê hồn của chết chóc:
            角 聲 滿 天 秋 色 裏
            塞 上 燕 脂 凝 夜 紫
            Giác thanh mãn thiên thu sắc lý
            Tái thượng yên chi2 ngưng dạ tử.
                                    (Nhạn môn thái thủ hành_ Lý Hạ)

            Âm thanh quân lệnh vang lên giữa vùng trời biên tái mùa thu,
            Trong đêm tối màu son (của tử thi) ánh lên sắc đỏ tím.

            Thế rồi bao cuộc mối mai như để dọn đường cho cuộc lữ. Cuộc lữ bắt đầu là khi tiếng bi hùng vừa lên ngôi. Dặm trường chông gai, cay đắng luôn ở phía trước. Thảm họa luôn rình rập đưa cuộc lữ đến chót đường uất hận bi thương. Tô Đông Pha trong Vi tuyết hoài Tử Do đã tâm sự với người em, đồng thời là người bạn văn chương chí thiết của mình:

            愁 腸 別 後 能 消 酒
            白 髮 秋 來 已 上 簪
            Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu
            Bạch phát thu lai dĩ thượng trâm.

            Sau khi chia tay, gan ruột héo sầu có thể làm tiêu tan được rượu; mùa thu tới, trên đầu tóc bạc đã thấy cài trâm.

            Tóc trắng mùa thu hay mùa thu tóc trắng?! Với nỗi lòng cay đắng sầu thương có thể làm tiêu tan được rượu thì tóc trắng giữa mùa thu đã bỗng nhiên trở thành mùa thu tóc trắng, mùa thu của cái kiêu hùng nhưng thống thiết bi ai. Mùa thu ấy không phải chỉ hiện về chốc lát mà nó là nỗi u hoài thiên cổ. Bao giờ cuộc lữ chưa đi hết bước cuối cùng thì gian nan khổ hận vẫn còn đeo đẳng.

            萬 里 悲 秋 常 作 客
            百 年 多 病 獨 登 臺
            Vạn lý bi thu thường tác khách
            Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
                                    (Đăng cao_ Đỗ Phủ)

            Ở nơi xa xôi vạn dặm thường làm khách khóc thương mùa thu. Một đời người trăm năm nhiều bệnh tật mà lúc này đây chỉ có mình ta lên đài cao. Kiếp lưu đày với bao gian nan đã làm cho tóc sương ngày một thêm nhiều: “gian nan khổ hận phồn sương mấn”. Tóc sương hay tóc trắng thì có khác gì, đều cũng là màu của lao đao sầu hận, màu của chiều tạ thu phai. Đứng trước chiều thu, kẻ lữ hành như đối diện với nỗi sầu vô tận, lòng thấy choáng ngợp. Và khoảnh khắc ấy tưởng chừng đã đánh gục con người, nhưng không, cái dáng hình tiều tụy đó vẫn đứng kiêu hùng để đón nhận những trận thu phong, đón nhận chút thân tình của trời đất.

            Ngoài kia lá vẫn rụng, nàng thu vẫn âm thầm đi về giữa cuộc thế, vẫn miệt mài gọi kẻ tình chung. Và cũng không có gì có thể thay đổi được mối tình đồng vọng của khách thơ đang dấn bước trên cuộc lữ.\.
                                                                                      

Quảng Hương Già Lam 25\6\02
Thanh Hòa

1- Giá cô: 鷓 鴣: Một loài chim ở vùng biên tái thường được dùng để ví cảnh đày ải xa xôi.
2-Yên chi: 燕 脂 / yan(1) zhi /, tức là 胭  脂 /yan(1) zhi / hoặc 臙 脂 : Son , ở đây muốn nói chiến trường sau cuộc chiến bị màu son (máu ) bôi phủ thành đỏ hồng.

READ MORE - TÌNH THU QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM THƠ TRUNG HOA - Thanh Hòa